Chữa trĩ bằng thuốc đông y
Bệnh trĩ phát sinh do tình trạng phồng giãn và sung huyết đám rối tĩnh mạch hậu
môn trực tràng, hình thành một hay nhiều búi trĩ; tùy theo vị trí giải phẫu và mức
độ sung huyết của đám rối tĩnh mạch trĩ trong hoặc trĩ ngoài mà phân thành trĩ nội,
trĩ ngoại. Bệnh hay gặp ở cả nam và nữ, lứa tuổi chủ yếu là trung niên và người cao
tuổi. Ở Việt Nam bệnh trĩ có tỷ lệ mắc bệnh khá cao từ 30-35% dân số, đứng hàng
thứ 3 trong cơ cấu bệnh hậu môn trực tràng.
Có nhiều nguyên nhân và những yếu tố thuận
lợi sinh ra bệnh, được tập trung vào 4 nhóm
chính:
- Nhóm bệnh lý đường tiêu hóa: Hội chứng
lỵ, viêm đại tràng mạn tính, rối loạn tiêu hóa
kéo dài, táo bón khiến cho người bệnh đi
ngoài phải rặn nhiều, thời gian đại tiện lâu tạo
điều kiện phát sinh bệnh trĩ.
- Sự suy yếu tổ chức nâng đỡ tại chỗ: Do lớp
cơ ở dưới niêm mạc hậu môn trực tràng, hệ
thống co thắt, dây chằng, cơ nâng bị suy yếu, hệ thống đám rối tĩnh mạch suy yếu sa giãn
hình thành búi trĩ.
- Yếu tố cơ học: Thai sản ở phụ nữ, các khối u vùng tiểu khung (u xơ tử cung, u nang
buồng trứng, u phì đại tuyến tiền liệt ), bệnh lý tăng áp lực tĩnh mạch cửa, chủ, gây ứ
máu ở đám rối tĩnh mạch trĩ.
- Các nguyên nhân khác:
Chế độ ăn: Ăn nhiều thức ăn cay nóng, kích thích như ớt, hạt tiêu, rượu
Nghề nghiệp: Ngồi lâu, đứng lâu, lao động nặng nhọc, ngồi xổm, thói quen nhịn đại tiện.
Ngoài ra bệnh trĩ còn mang yếu tố gia đình.
Người mắc bệnh trĩ có các biểu hiện lâm sàng:
Hoa đẳng sâm.
Chảy máu:
Đặc điểm: Chảy máu tươi khi đại tiện, tự cầm khi kết thúc cuộc đi ngoài.
Chảy máu là biểu hiện sớm nhất, hay gặp nhất, hình thức chảy máu và số lượng máu chảy
rất khác nhau. Lúc đầu chảy máu kín đáo, máu dính theo phân, về sau chảy máu nhỏ giọt
hoặc phun thành tia sau mỗi khi rặn đi ngoài. Bệnh diễn biến mạn tính lâu ngày có thể
dẫn đến tình trạng suy nhược thiếu máu.
Trĩ sa: Trĩ độ II trở lên, búi trĩ sa ra ngoài hậu môn tạm thời hoặc thường xuyên, đôi khi
còn chảy dịch ẩm ướt khó chịu.
Đau: Trĩ nội bình thường không đau mà có cảm giác tức nặng ở hậu môn, chỉ đau khi có
biến chứng: trĩ tắc mạch, trĩ nghẹt, trĩ viêm hoặc trĩ kết hợp với một bệnh khác như nứt
kẽ, áp xe, rò hậu môn, viêm ống hậu môn
Trĩ có nhiều thể khác nhau, được chia thành trĩ nội, trĩ ngoại, trĩ hỗn hợp và trĩ biến
chứng:
Kết quả điều trị phụ thuộc vào chỉ định cho từng loại trĩ và mức độ nặng, nhẹ của bệnh.
Theo y học cổ truyền, nguyên nhân phát sinh bệnh trĩ không chỉ do bệnh lý tại chỗ mà
còn do yếu tố toàn thân như âm dương thiếu cân bằng, tạng phủ, khí huyết hư tổn, cùng
với thấp, nhiệt, phong, táo, ăn uống, nghề nghiệp gây ra.
Trĩ có nhiều thể tùy thể bệnh với các chứng trạng mà dùng bài thuốc chữa khác nhau:
Thể thấp nhiệt ở đại tràng
Triệu chứng: Đại tiện ra máu, sắc đỏ tươi, số lượng nhiều hoặc ít, trĩ sa theo độ, đau nóng
rát hậu môn, đại tiện táo hoặc đau quặn bụng, mót rặn, đại tiện bí khó đi, tiểu tiện vàng,
sẻn. Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng. Mạch huyền, tế, sác.
Bài thuốc: Hòe hoa 15g, kinh giới tuệ 10g, chỉ xác 10g, hoàng bá 10g, trắc bá diệp (sao
cháy) 10g. Sắc uống ngày 1 thang.
Thể tỳ hư không nhiếp huyết
Triệu chứng: Đại tiện ra máu tươi, sắc nhạt màu, lượng
có thể nhiều ít khác nhau, kèm theo sắc mặt kém tươi
nhuận, hồi hộp mệt mỏi, ăn ngủ kém, phân táo lỏng thất
thường, trĩ sa. Chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch tế
vô lực.
Bài thuốc: Hoàng kỳ 30g, đẳng sâm 20g, bạch truật
12g, bạch linh 12g, đương quy 12g, trần bì 5g, mộc
hương 10g, tiên hạc thả 30g, chế hoàng tinh 30g. Sắc
uống ngày một thang.
Thể khí hư hạ hãm
Triệu chứng: Thường thấy ở bệnh nhân có tuổi, mắc
bệnh lâu ngày, trĩ sa không tự co, kèm theo sa niêm mạc trực tràng. Chảy máu tươi khi
đại tiện ít hơn, sắc nhạt màu, kèm theo tinh thần mệt mỏi suy nhược, hụt hơi, ngại nói,
sắc mặt kém tươi nhuận, hồi hộp, váng đầu, ăn ngủ kém, đại tiện phân nát, tiểu tiện trong
dài. Chất lưỡi nhạt bệu, rêu lưỡi trắng mỏng. Mạch trầm tế nhược.
Bài thuốc: Sài hồ 8g, bạch truật 12g, trần bì 6g, thăng ma 10g, đẳng sâm 15g, đương quy
12g, hoàng kỳ 10g, chích cam thảo 5g.
Các bài thuốc trên sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần trong ngày, uống liền 3 tuần (21
ngày).
Lương y Vũ Quốc Trung
Bạch truật.