Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Phải chăng lạm phát là một hiện tượng tiền tệ pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.68 KB, 11 trang )

Phải chăng lạm phát là một hiện
tượng tiền tệ ???
Lạm phát nói chung có thể được hiểu là việc giá cả các hàng hóa
tăng lên so với mức hiện tại. Cần phải hiểu việc tăng giá ở đây là
tăng nói chung, chứ không phải tăng giá một hàng hóa cá biệt.
Nếu giá xăng dầu, hay giá gạo tăng một cách đơn lẻ thì không có
nghĩa là do lạm phát, mà đơn giản có thể chỉ là một bất cân đối
tạm thời giữa cung và cầu trong ngắn hạn. Lạm phát chỉ được coi
là tồn tại khi có sự tăng giá của nhiều mặt hàng cùng lúc, đẩy mặt
bằng giá lên một nấc mới.

Trên thực tế, lạm phát được tính trên việc so sánh chỉ số giá tiêu
dùng (Consumption Price Index – CPI) xây dựng trên một rổ hàng
hóa cố định cho trước. Lạm phát nói cách khác là sự tăng chỉ số
giá CPI, khi ta giữ nguyên tỷ trọng và số lượng các hàng hóa cấu
thành. Nhìn từ mặt này, lạm phát hoàn toàn chỉ là vấn đề thước
đo bị biến dạng. Nếu trước đây cần 1 triệu đồng để mua một rổ
hàng hóa thiết yếu, bây giờ cần 2 triệu, thì có nghĩa là thước đo
đã bị co lại một nửa. Mỗi đồng Việt Nam thật ra đã bị mất giá 50%
dẫn đến việc phải cần lượng tiền gấp đôi để mua cùng một lượng
hàng hóa.

Irving Fisher, cha đẻ của học thuyết khối lượng tiền tệ, đã mô tả
hiện tượng này qua phương trình sau:

M.V = P.Q

Trong đó,

M là khối lượng tiền tệ trong lưu thông


V là tốc độ (vận tốc) lưu thông của tiền

P là chỉ số giá

Q là khối lượng hàng hóa lưu thông trong nền kinh tế

Phương trình này có thể được diễn giải như sau: Giá trị của tổng
số lượng hàng hóa trong một nền kinh tế (tính bằng cách nhân số
lượng mỗi hàng hóa với giá của chúng) tương đương với tổng số
tiền cần thiết để vận hành nền kinh tế ấy (tính bằng khối lượng
tiền tệ nhân với tốc độ lưu thông). Điều này có nghĩa nếu tốc độ
lưu thông của tiền lớn, thì sẽ cần một khối lượng tiền thấp đưa
vào lưu thông. Và ngược lại, nếu nền kinh tế thiếu năng động,
tiền lưu thông chậm thì cần phải tăng khối lượng tiền để đảm bảo
cân đối kinh tế. Nếu không như thế các hiện tượng lạm phát hoặc
giảm phát sẽ diễn ra. Cũng theo phương trình, lạm phát là
nguyên nhân của việc có thừa tiền trong lưu thông: tích số M.V
lớn hơn mức cần thiết. Kết quả là với số lượng hàng hóa không
đổi (Q cố định), giá (P) sẽ phải tăng một cách tất yếu.

Milton Friedman đưa ra một ví dụ rất dễ hiểu. Hãy tưởng tượng
một hòn đảo cô lập nơi các hoạt động kinh tế chỉ diễn ra giữa một
cộng đồng người rất nhỏ, không có sự can thiệp của công nghệ
trong hoạt động sản xuất. Khối lượng hàng hóa mà cộng đồng
này làm ra do đó là không đổi. Cộng đồng sử dụng đồng đôla Mỹ
(USD) làm công cụ trao đổi. Bây giờ hãy tưởng tượng một chiếc
trực thằng bay từ nơi khác đến, và thả xuống hòn đảo đó một
khối lượng đô la tương đương với tổng số đôla mà người dân
trên đảo sở hữu. Giả sử rằng trên đảo đã có 1 triệu đôla tiền giấy,
chiếc trực thăng đem tới một triệu đôla nữa; vậy là người dân sẽ

có 2 triệu đôla. Thế nhưng liệu có phải vì thế mà họ sẽ giàu lên
gấp hai lần hay không ?

Câu trả lời là không. Người dân sẽ có nhiều tiền hơn nhưng khối
lượng hàng hóa họ sản xuất và tiêu thụ là không thay đổi và vận
tốc lưu thông của đồng tiền cũng cố định. Kết quả là người dân
có nhiều tiền hơn trên bình diện số học nhưng họ chẳng giàu có
hơn chút nào. Khối lượng tiền dư thừa sẽ bị hấp thu hết do tăng
giá. Trước đây uống một cốc cà phê hết 2 đôla, giờ có 4 đôla
nhưng giá cà phê cũng tăng từ 2 đến 4, vậy là chẳng được thêm
chút lợi ích nào. Friedman kết luận lạm phát mọi nơi và mọi lúc
chỉ là một hiện tượng tiền tệ: «Inflation is always and everywhere
a monetary phenomenon». Nó diễn ra khi chính phủ không quản
lý được khối lượng tiền, dẫn đến việc MV bị dư thừa, và phần
dư thừa này sẽ bị đẩy vào giá.

Nhưng liệu lạm phát luôn luôn chỉ là một hiện tượng tiền tệ?

Nhìn chung, các nhà kinh tế đều cho rằng lạm phát chỉ có tác
dụng tích cực khi xuất hiện ở mức thấp, và nằm trong vòng kiểm
soát. Lạm phát ở mức 2 con số khó lòng có thể được coi là dấu
hiệu tốt cho một nền kinh tế.

Hậu quả nặng nề nhất của lạm phát là ở việc nó làm xói mòn giá
trị. Khi có cung tiền thừa mứa, như trong ví dụ chiếc trực thăng
thả tiền xuống hòn đảo ở trên, lạm phát không đến ngay lập tức
mà cần một thời gian để nền kinh tế hấp thụ số dư đó. Vào thời
điểm ban đầu, việc có dư cung tiền tạo ra một cảm giác về sự
giàu có. Một số người sẽ nhận ra rằng họ giàu hơn (một cách
tương đối) so với những người khác vì nhặt được nhiều tiền hơn.


Ảo giác này vẫn tồn tại sau khi nền kinh tế có điều chỉnh bằng
giá. Kết quả là người ta sẽ thèm khát đi tìm tiền, thay vì quan tâm
đến sự giàu có đích thực, chỉ đến từ việc sản xuất và tiêu dùng.
Nói như Friedman, lạm phát đối với một quốc gia giống như một
thứ thuốc làm người nghiện có cảm giác đê mê. Mỗi khi hết
thuốc, anh ta lại tìm mọi cách để có nó trở lại. Trong khi đó cơ thể
anh ta suy sụp một cách nghiêm trọng vì không được chăm sóc
đúng đắn.

Khi chính phủ bơm tiền vào nền kinh tế (để phục vụ cho việc
thâm hụt ngân sách chẳng hạn), người dân sẽ có cảm giác hạnh
phúc vì mình kiếm được nhiều tiền hơn. Các chỉ số kinh tế như
GDP, GDP/đầu người, tiêu dùng, đầu tư sản xuất…vv…sẽ đi lên.
Cuộc sống dường như sẽ sáng lạn hơn và toàn màu hồng. Tuy
nhiên, căn bệnh lạm phát sẽ ập đến 2, 3 năm sau đó và hủy diệt
viễn cảnh tươi sáng này. Ngoài việc giá cả sẽ tăng một cách
ngẫu nhiên, các nhà sản xuất sẽ còn tiếp tục tăng giá bởi vì họ
thèm tiền, và bởi vì họ thấy rằng tăng giá vẫn tiếp tục bán được
hàng mà lại có lợi. Điều này hoàn toàn là tất yếu, vì cơ cấu tiêu
dùng của quốc gia không thể thay đổi trong ngắn hạn. Chưa kể
đến một số sản phẩm là thiết yếu với cuộc sống, không phải vì
giá tăng mà chúng ta có thể nhịn không tiêu dùng. Những người
mà thu nhập chính là tiền lương sẽ nghèo đi một cách nhanh
chóng. Tiền lương luôn bị điều chỉnh rất chậm chạp so với giá cả.
Trong khi đó, lạm phát sẽ tiếp tục vòng xoáy không có điểm
dừng. Cơn khát tiền sẽ làm cho người ta lao vào kiếm tiền nhiều
hơn nữa, thay vì lao động đích thực. Lao động chân chính sẽ bị
quên lãng, bởi vì nó chỉ được trả bằng lương, mà như đã nói lạm
phát biến tiền lương thành một thứ thu nhập mong manh.


Có một rủi ro lớn hơn nữa khi chính phủ muốn quản lý khối lượng
tiền tệ MV nhưng lại không có đủ năng lực và các chế tài cần
thiết để quản lý các tác nhân kinh tế tham gia vào nguồn cung
tiền. Đó chính là nguy cơ mất quyền sở hữu tài nguyên, đất đai,
sở hữu công cụ sản xuất

Ngày hôm nay các tổ chức tư bản tài chính có thể hoạt động
trên phạm vi toàn cầu. Việc không quản lý chặt chẽ các tác nhân
này sẽ dẫn đến việc họ thao túng khối lượng tiền bằng các hoạt
động đầu cơ, và góp phần gây ra lạm phát. «Bầy thú điện tử
sừng mềm» bơm tiền vào nền kinh tế, và gây ra ảo giác của sự
giàu có. Trong khi người dân mải mê đi kiếm tiền, họ lần lượt
mua lại tài nguyên, đất đai, nhà xưởng và trở thành chủ sở hữu
các công cụ sản xuất, nguồn gốc đích thực của sự thịnh vượng.
Sau khi đã chính thức trở thành các ông chủ, họ sẽ nhả miếng
mồi, để cho đồng tiền quốc gia trượt giá một cách không thương
tiếc. Người dân sẽ được sở hữu một lượng lớn tiền nhưng không
còn giá trị. Đó chỉ còn là những tờ giấy có in những con số khổng
lồ.(st)

×