Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Bài thảo luận về Nguồn tài trợ ngắn hạn do vay mượn có đảm bảo pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.63 KB, 9 trang )

Đề tài thảo luận: Nguồn tài trợ ngắn hạn do vay mượn
có đảm bảo
Một công ty không dễ dàng gì nhận được nguồn tài trợ ngắn hạn của một ngân
hàng hay các nguồn khác khi không có đảm bảo,vì các hình thức tài trợ đó đem
lại rất nhiều rủi ro cho người cho vay.Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp cung cấp đủ
sự đảm bảo đối với khoản tiền vay theo yêu cầu thì họ sẽ dễ dàng nhận được
khoản tín dụng cần thiết từ một nhà tài trợ nào đó.
Việc bảo đảm an toàn nhằm đảm bảo thanh toán cả tiền vốn gốc và lãi của
khoản cho vay là hình thức thế chấp(collateral). Các hình thức thế chấp để đảm
bảo cho khoản vay ngắn hạn bao gồm:
 Vay có thế chấp bằng khoản phải thu
 Mua nợ
 Vay thế chấp bằng hàng hóa
 Chiết khấu thương phiếu
1.vay thế chấp bằng khoản phải thu
Doanh nghiệp có thể có được một khoản vay ngắn hạn từ ngân hàng hay các
công ty tài chính bằng cách sử dụng các hóa đơn thu tiền làm vật đảm bảo cho
khoản vay.Nếu ngân hàng quan tâm và đồng ý tài trợ cho công ty, họ sẽ đánh giá
chất lượng của các loại hóa đơn thu tiền được dùng làm vật thế chấp và sau đó,
xác định giá trị khoản cho vay tương xứng với giá trị của khoản phải thu. Gía trị
của khoản cho vay tùy thuộc vào mức độ rủi ro, có thể dao động trong khoảng
20% đến 90% giá trị danh nghĩa của khoản phải thu.
Khi giá trị này đã được xác định,công ty đi vay sẽ gửi ngân hàng cho vay một
bản danh mục liệt kê danh sách các khoản phải thu, cùng thời hạn trả và tổng số
tiền. sau đó công ty sẽ yêu cầu ngân hàng cung cấp một cam kết bằng văn bản
để chuyển tất cả các khoản phải thu sang phần thanh toán và bù trừ cân đối
công nợ.Thông thường, một khi doanh nghiệp đã được ngân hàng tài trợ tin cậy,
ngân hàng có thể tiếp tục cho vay trên cơ sở nhận cầm cố những khoản phải thu
mới như những giao dịch đã xảy ra trước đó.
 Điều kiện áp dụng đối với doanh nghiệp :
 Cần được thanh toán ngay sau khi giao hàng nhưng vẫn duy trì và phát


triển các mối quan hệ với khách hàng thông qua các điều khoản ưu đãi về
thời gian thanh toán.
 Cần có ngay tiền mặt để thu mua nguyên vật liệu nhằm hưởng các ưu đãi
về giá.
 Đối tượng thường gặp :
 Doanh nghiệp xuất khẩu có bộ chứng từ hàng xuất khẩu
 Doanh nghiệp sẽ được ngân hàng ứng trước tiền hàng xuất khẩu dựa
trên bộ chứng từ hàng xuất thanh toán theo phương thức nhờ thu kèm
chứng từ (D/P, D/A) hoặc tín dụng chứng từ (L/C).
 Doanh nghiệp đuợc cấp hạn mức cho vay bảo đảm bằng khoản phải thu
từ bộ chứng từ hàng xuất khẩu để có thể sử dụng một cách chủ động và
thuận tiện với tỷ lệ cho vay lên đến 100% trị giá bộ chứng từ.
 Tài trợ không cần tài sản bảo đảm đối với doanh nghiệp xuất khẩu có kinh
nghiệm lâu năm và uy tín thanh toán tốt với ngân hàng
 Tại sao doanh nghiệp nên sử dụng dịch vụ này?
Vì đây là:
 Một giải pháp thanh toán chuyên biệt cho các giao dịch sử dụng phương
thức Ghi sổ.
 Một giải pháp tài trợ thương mại khác trong trường hợp người mua không
phát hành Tín dụng thư.
 Doanh nghiệp sẽ không cần phải theo dõi khoản tiền thanh toán.
 Bảo vệ doanh nghiệp trong trường hợp người mua không có khả năng
thanh toán.
 Quản lý sổ cái bán hàng hiệu quả
Nhược điểm
Hiện nay trên thị trường có rất ít ngân hàng có hình thức cho vay thế chấp bằng
khoản phải thu ( mới chỉ có ACB) thường thì có vay thế chấp bằng bất động sản
hoặc tài sản cố định. Vì vậy hồ sơ thủ tục rất phức tạp, lãi suất chưa ổn định…
2.Mua nợ
Các định chế tài chính có thể mua những khoản phải thu và đây cũng là một

phương pháp để gia tăng nguồn tín dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Các tổ
chức mua nợ thường là một ngân hàng, một công ty tài chính hay công ty mua
nợ. Sau khi việc mua bns hoàn tất, bên mua nợ sẽ có trách nhiệm thu hồi các
khoản nợ theo các chứng từ đã mua và chịu mọi rủi ro khi gặp những món nợ
khó đòi( mua nợ được áp dụng cho cả bán hàng trong nước và xuất khẩu)
Bên cạnh việc nguồn tài chính như mong muốn, mua nợ còn cho phép doanh
nghiệp chấp nhận bán chịu cho khách hàng mà không phải chịu nhiều rủi ro: bởi
các công ty mua nợ sẽ kiểm tra vị thế tài chính của khách hàng trước khi quyết
định mua chứng từ bán hàng của doanh nghiệp
Ưu điểm:
 Đối với doanh nghiệp bán hàng:
 Cải thiện dòng tiền, tăng khả năng thanh khoản.
Khách hàng
Trả tiền cho người
mua nợ
(4)
(3)
Người mua nợ
Ngân hàng
Công ty tài chính
Công ty mua nợ
Doanh nghiệp
Bán chứng từ bán hàng cho người
mua nợ
trả tiền theo thảo thuận
Báo cho khách hàng
tiền người mua nợ
(1)
(2)
các bên và những hoạt dộng liên quan đén lĩnh vực mua nợ nội

địa.
 Tăng doanh số bán hàng nhờ chính sách bán hàng trả chậm, tăng
lòng tin nơi khách hàng
 Giảm chi phí hành chính, quản lý công nợ.
 Có nguồn tài chính mới mà không phụ thuộc vào các khoản vay
ngân hàng,không yêu cầu phải có tài sản bảo đảm.
 Giảm thiểu nợ xấu, hạn chế rủi ro tín dụng.
 Đối với doanh nghiệp mua hàng:
 Có thể mua hàng theo điều khoản thanh toán sau.
 Sử dụng tín dụng người bán để tài trợ vốn lưu động.
 Cơ hội đàm phán điều khoản mua hàng tốt hơn.
 Đơn giản hóa thủ tục thanh toán nhờ tập trung thanh toán về một
đầu mối là ngân hàng
Nhược điểm:
 chi phí huy động ngân quỹ theo hình thức thảo thuận mua nợ khá cao,
bởi nó bao gồm nhiều loại chi phí như chi phí kiểm tra tư cách tín dụng
của khách hàng
 rủi ro không thu hồi được nợ.
3. Vay thế chấp bằng hàng hóa
Bên cạnh các chứng từ bán hàng, các loại hàng hóa, tài sản cũng thường
được sử dụng để thế chấp cho những khoản vay ngắn hạn. Trị giá của khoản
vay thuộc loại thế chấp này tùy thuộc vào mức độ rủi ro, khả năng chuyển đổi
nhanh, và tính ổn định về giá cả của các loại hàng hóa thế chấp. Nếu những
hàng hóa, tài sản này không có rủi ro, có thể bán nhanh trên thị trường và có giá
cả ổn định thì khoản vay mượn sẽ chiếm một tỷ lệ khá cao so với giá trị ghi trên
chứng từ.
Những công ty có hàng hóa, tài sản mà cần mốt số vốn ngắn hạng có thể
dựa vào nguồn tài trợ này. Vay thế chấp bằng hàng hóa gồm có các hình thức
sau:
• Vay ký thác

• Vay thế chấp bằng ký hóa phiếu hàng di chuyển được
• Vay thế chấp bằng ký hóa phiếu hàng cồng kềnh
• Để đương
• Lãnh nợ hay bảo lãnh của bên thứ ba
3.1.Vay ký thác bằng hàng hóa
Vay ký thác là khoản vay do ngân hàng tài trợ trên cơ sở những hàng hóa đặc
biệt đang thuộc quyền sở hữu của công ty. Nó còn được gọi là vay bắc cầu hay
tiền cho vay trên hàng hóa.
Đặc trưng:
• chỉ được chấp nhận khi công ty đi vay có những hàng hóa thuộc loại có
thể dễ dàng nhận diện và, những hàng hóa này có giá trị lớn trên thị
trường
• ví dụ như xe hơi,các thiết bị âm thanh nổi…
Theo thỏa thuận cho vay ký thác, người đi vay phải ký nộp văn bản ủy thác chỉ
rõ những hàng hóa đang thuộc quyền sở hữu của họ được giao cho ngân hàng
quản lý. Đổi lại, công ty nhận được một hối phiếu có thời hạn để được rút tiền
trong một khoảng thời gian nhất định nhằm trang trải cho toàn bộ chi phí của
giao dịch mua hàng hóa. Sau đó cũng theo thỏa thuận này, ngân hàng ký phát
những chứng từ thích hợp cho phép công ty nhận lại quyền sở hữu hàng hòa và
kết toán tài khoản khi chúng được bán xong
Nhược điểm: những doanh nghiệp nhỏ và vừa khó có thể vay được bằng hình
thức này
3.2. Vay thế chấp bắng ký hóa phiếu hàng di chuyển được
Đối với những loại hàng hóa dễ dàng vận chuyển như xi măng hay bột mì
chẳng hạn, thì thỏa thuận cho vay đem lại nhiều rui ro cho ngân hàng, bởi những
hàng hóa đó có thể bị công ty vay tiền đem bán xong mà ngân hàng không hay
biết cho tới khi đã quá trễ. Do đó, ngân hàng cho vay có thể yêu cầu công ty
chuyển những hàng hóa của họ gửi vào mọt kho chứa hàng công cộng, trước
khi chấp nhận cho vay.
Theo hình thức thỏa thuận cho vay này, công ty vay tiền không được phép

bán bất cứ một phần nào thuộc những hàng hóa đã được gửi vào kho công cộng
nếu không được sự chấp thuận bằng văn bản của ngân hàng. Ngân hàng chỉ
đồng ý cấp giấy phép bán những hàng hóa thế chấp này khi họ được đảm bảo
rằng, công ty vay tiền sẽ thanh toán món nợ một cách nhanh chóng ngay khi
nhận được tiền bán những hàng hóa đó.
Nhược điểm: mất khoản chi phí cho việc thuê kho hàng bến bãi, thuê nhân viên
và không được phép bán bất cứ một phần hàng hóa nào khi chưa thanh toán
tiền cho ngân hàng, điều đó gây bất lợi cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp cần
bán hàng cho khách để thu hồi vốn
3.3. Vay ký thác bằng chứng từ lưu kho hàng cồng kềnh
Loại thỏa thuận này tương tự như thoản thuận vay có thể bằng ký hóa phiếu
hàng di chuyển được, chỉ khác là những tài sản trên của công ty vay tiền được
thay thế bằng một hóa đơn lưu kho nội bộ của công ty.
Thông thường ngân hàng chỉ chấp thuận loại cho vay này đối với những hàng
hóa quá cồng kềnh, không thuận tiện khi chuyển vào kho công cộng…Những
loại hàng hóa này có thể là gỗ chưa xẻ, ván ép, hay sắt thép…
Nhược điểm: như vay thế chấp bằng ký hóa phiếu hàng di chuyển được
3.4. Để đương
Theo thỏa thuận này, công ty đi vay lập một bảng danh mục tất cả các loại tài
sản của họ, mà không có bất cứ sự chỉ dẫn rõ ràng loại nào được dùng làm tài
sản thế chấp và chỉ xét cho vay dựa trên những tài sản thuộc danh sách đã
chọn trong khoảng thời gian đã định. Vật thế chấp theo hình thức cho vay này
vẫn được quyền quản lý của người vay tiền và ngân hàng chỉ giữ giấy phép sở
hữu chúng.
Tuy nhiên, từ khi cho vay dưới hình thức để đương trở thành phổ biến và ngân
hàng nhận thấy rất khó giám sát loại giao dịch tín dụng này nên họ thường tránh
không tài trợ với số lượng lớn. Một lý do nữa khiến các ngân hàng chỉ cho vay
một số lượng nhỏ đối với hình thức này là do chi phí và sự phiền phức liên quan
đến việc phát mãi tài sản thế chấp khi công ty vay tiền không trả được nợ.
Nhược điểm: doanh nghiệp chỉ vay được lượng vốn nhỏ so với lượng tài sản

hiện có.
3.5. Lãnh nợ hay bảo lãnh của bên thứ ba
Một công ty cũng có thể vay được những khoản tiền ngắn hạn nếu được
những cổ đông chính hay một bên thứ ba khác có tư cách tín dụng tốt đảm bảo
với ngân hàng là đồng ý làm người bảo đảm cho món nợ. Những người bảo lãnh
này sẽ viết một cam kết gửi ngân hàng, khẳng định trách nhiệm trả món nợ thay
cho người vay trong trường hợp người này bị mất khả năng chi trả.
Sự bảo lãnh này có thể là riêng biệt hay bảo lãnh nối tiếp. Nếu là bảo lãnh
riêng biệt thì nó chỉ bảo đảm cho một món nợ duy nhất, còn nếu là bảo lãnh nối
tiếp thì nó bao trùm lên hàng loạt giao dịch vay mượn. Ngoài ra, bảo lãnh có thể
là bảo lãnh toàn phần hay bảo lãnh từng phần đối với khoản tiền vay.
Nhược điểm: doanh nghiệp chỉ vay được lượng vốn nhỏ so với lượng tài sản
hiện có.
Tóm lại, doanh nghiệp có thể huy động vốn bằng hình thức vay nợ bằng hàng
hóa của chính doanh nghiệp. Nhưng hình thức vay này có nhược điểm chung là
doanh nghiệp khó vay được lượng vốn lớn, thời hạn vay ngắn, thủ tục rườm
rà…
4.Chiết khấu thương phiếu
 Khái niệm : Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh
toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một
thời gian nhất định. Thương phiếu gồm có 2 loại là hối phiếu và lệnh phiếu.
 Hối phiếu là chứng chỉ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký
phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc
vào một thời gian nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.
 Lệnh phiếu là chứng chỉ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh
toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một
thời gian nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.
 Chiết khấu thương phiếu: Chiết khấu thương phiếu là một hình thức tín
dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại được thực hiện dưới hình thức
khách hàng sẽ chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đến hạn

thanh toán cho ngân hàng để nhận một khoản tiền thấp hơn mệnh giá của
thương phiếu. Số tiền chênh lệch giữa mệnh giá thương phiếu so với số tiền
khách hàng nhận được gọi là lãi chiết khấu và phí hoa hồng
Chiết khấu thương phiếu vừa giống như hành vi mua bán chứng khoán ở chỗ
chuyển quyền đòi nợ ở con nợ đồng thời vừa giống tín dụng ở chỗ nó không
đơn thuần là hành vi mua bán vì nếu ngân hàng không đòi được nợ thì sẽ có
quyền đòi nợ ở người xin chiết khấu. Như vậy, chiết khấu thương phiếu là một
đồng được phép truy đòi. Do vậy, thực chất chiết khấu thương phiếu là hình thức
tín dụng ngắn hạn.
 Đối tượng thường gặp :
Các doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu, họ có thể sử dụng thương phiếu để
chiết khấu trên thị trường tiền tệ. Doanh nghiệp có thể đem chiết khấu các hối
phiếu xuất khẩu trả tiền trước và hối phiếu xuất khẩu có thời hạn tại bộ phận tái
chiết khấu thuộc ngân hàng để nhận được những khoản tiền vốn ngắn hạn.bằng
cách này công ty có thể tạo được nguồn vốn ngắn hạn với mức chi phí thấp hơn
hình thức vay ngắn hạn khác, bởi mức lãi suất chiết khấu theo kế hoạch tái chiết
khấu của Ngân hàng Nhà nước thường thấp hơn so với lãi suất cho vay phổ
biến của các ngân hàng thương mại.
Đối với nhà xuất khẩu ,số tiền thu được do đem các thương phiếu đi chiết khấu
có thể tính theo công thức sau:
P = F-( Fx r x n) /360
p: Số tiền thu được
F: Gía trị ghi trên thương phiếu(mệnh giá)
r: Lãi suất chiết khấu(năm)
n: Số ngày chiêt khấu
 Tại sao doanh nghiệp nên sử dụng dịch vụ này?
 Nhận được tiền trước khi thanh toán dưới phương thức Nhờ thu chứng
từ.
 Cải thiện dòng vốn của doanh nghiệp.
 Cho phép doanh nghiệp tái đầu tư sản xuất ngay lập tức.

 Những lợi ích khác
 Giảm thiểu ảnh hưởng của phương thức Nhờ thu chứng từ xuất khẩu.
 Doanh nghiệp có thể đưa ra nhiều lựa chọn thanh toán cho đối tác mà
không bị ảnh hưởng xấu tới dòng vốn của mình.
 Là hình thức tài trợ được sử dụng nhiều khi Nhờ thu chứng từ được hỗ
trợ bởi Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
 Điều kiện chiết khấu của một thương phiếu:
Một thương phiếu muốn được chấp nhận để chiết khấu cần phải đảm bảo những
điều kiện sau:
 Phát hành và lưu thông hợp pháp.
 Các yếu tố trên thương phiếu phải đầy đủ, rõ ràng; không cạo sửa, tẩy
xoá.
 Thương phiếu phải còn hiệu lực
Ưu điểm:
 Đối với doanh nghiệp:
 Đảm bảo nguồn vốn kết hợp kinh doanh bình thường:
Thương phiếu không phải là tiền vì cần phải chờ tới ngày đáo hạn người
thụ hưởng mới nhận được tiền, trong khi đó tiền bán chịu chính là doanh
thu của doanh nghiệp cho nên nó cần phải quay vòng nhanh để doanh
nghiệp trang trải chi phí và hoạt động bình thường. Khi doanh nghiệp cần
vốn mà tờ thương phiếu lại chưa đến hạn thanh toán thì doanh nghiệp có
thể nhờ ngân hàng chiết khấu tờ thương phiếu đó để có tiền sử dụng vào
sản xuất.
 Nghiệp vụ CKTP giúp gia tăng quan hệ tín dụng thương mại
giữa các doanh nghiệp: Vì giờ đây với nghiệp vụ CKTP của ngân hàng
doanh nghiệp sẵn lòng bán chịu hơn do có thể chiết khấu nhận được tiền
trước ngày đáo hạn tờ thương phiếu khi cần tiền, chứ không cần giữ mãi
tờ thương phiếu đó.
 Nghiệp vụ CKTP giúp gia tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn
ngân hàng cho các doanh nghiệp nhỏ: Có điều này là do khi ngân hàng

chiết khấu thương phiếu thì người thanh toán thương phiếu mới chính là
đối tượng chủ yếu mà ngân hàng quan tâm khi cấp tín dụng, mặc dù
chính chủ nợ, hay người thụ hưởng mới là người mang thương phiếu đi
chiết khấu. Cho nên nếu người thanh toán là công ty lớn, hoạt động hiệu
quả thì sẽ dễ dàng được ngân hàng chấp nhận chiết khấu. Ví dụ như:
Nếu một công ty ABC (rất nhỏ, chưa danh tiếng) bán chịu một lô hàng cho
công ty lớn như công ty sữa Vinamilk và lập một hối phiếu, sau đó
Vinamilk ký bảo đảm lên hối phiếu đó. Thì khi công ty ABC mang hối phiếu
đó đến ngân hàng để chiết khấu, có thể dựa vào danh tiếng, năng lực
hoạt động tốt của Vinamilk thì ngân hàng dễ chấp nhận tờ hối phiếu đó
hơn. Và nhờ đó ABC dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn lý tưởng bậc nhất
trong nền kinh tế là từ ngân hàng mà không tốn quá nhiều chi phí và thời
gian (còn tại sao nói nguồn vốn ngân hàng là nguồn vốn lý tưởng trong
nền kinh tế thì chắc là các bạn biết rồi).
Nhược điểm:
 Nhược điểm thứ nhất, do tính trừu tượng của thương phiếu, sẽ dẫn đến
tình trạng hai doanh nghiệp thông đồng nhau lập ra thương phiếu khống
(thương phiếu không phát sinh từ quan hệ mua bán chịu) để mang đến
ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. Chính điều này đã làm cho cơ sở
đảm bảo của thương phiếu là tín dụng hàng hoá không thể tồn tại, số tiền
cho vay được ngân hàng phát ra không có cơ sở đảm bảo.
 Nhược điểm thứ hai, với những nhược điểm sẳn có của tín dụng thương
mại, khó có thể mở rộng qui mô (khối lượng) và thời gian mua bán chịu
hàng hoá trong trường hợp nhu cầu mua chịu quá lớn và thời gian quá
lâu.
 Nhược điểm thứ ba, quan hệ mua bán chịu này chỉ có thể phát sinh giữa
những doanh nghiệp tín nhiệm, có giao dịch thường xuyên với nhau.
Nhận xét: doanh nghiệp muốn có cơ cấu vốn tối ưu nên sử dụng hình thức chiết
khấu thương phiếu,vì chi phí sử dụng nguồn tài trợ là thấp nhất trong điều kiện
an toan về tài chính

×