Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

cơ sở của di truyền học pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.08 KB, 9 trang )










Các nhà chọn giống thực vật cho
thấy rằng cả bố lẫn mẹ đóng góp
như nhau về mặt di truyền
Thực vật là những đối tượng lý
tưởng cho việc nghiên cứu di
truyền. Nhiều loại cây có thể dễ
dàng trồng với số lượng lớn, tạo ra
một số lượng lớn con cái (ở dạng
hạt) và có thời gian tạo thế hệ
tương đối ngắn. Ở hầu hết các loài
thực vật, cùng trên một cá thể có cả
cơ quan sinh sản đực lẫn cái, cho
phép mỗi cây sinh sản dưới dạng
cây đực hoặc cây cái hoặc cả hai.
Điều lý tưởng nhất là ta có thể dễ
dàng kiểm soát đối tượng nào sẽ lai
với nhau.
Một số khám phá mà Mendel nhận
thấy có ích cho nghiên cứu của ông
đã được tìm ra ở cuối thế kỷ 18 bởi
một nhà thực vật học người Đức
Josef Gottlieb Kolreuter. Ông này


đã nghiên cứu con cái của các phép
lai thuận & nghịch trong đó các cây
được lai với nhau theo chiều ngược
nhau. Ví dụ trong một phép lai, cây
đực có hoa trắng được lai với cây
cái có hoa đỏ trong khi ở một phép
lai tương ứng một cây đực hoa đỏ
được lai với một cây cái hoa trắng.
Trong các nghiên cứu của
Kolreuter các phép lai thuận và
nghịch như vậy luôn cho kết quả
như nhau, chứng tỏ rằng bố lẫn mẹ
đóng góp như nhau cho con cái về
mặt di truyền.
Mặc dù khái niệm bố mẹ góp phần
như nhau là một khám phá quan
trọng, tính chất của cái gì mà bố mẹ
đã đóng góp như nhau cho con cái -
đơn vị di truyền - thì vẫn chưa
được biết. Các định luật di truyền
được đề xuất vào thời điểm đó
thiên về khái niệm pha trộn. Nếu
một cây có một dạng của một đặc
điểm nào đó (ví dụ hoa đỏ) được lai
với cây có một dạng khác của đặc
điểm đó (hoa lam) thì con cái sẽ là
sự kết hợp pha trộn giữa bố và mẹ
(hoa tím). Theo thuyết trộn lẫn
người ta cho rằng một khi các yếu
tố di truyền được kết hợp chúng

không thể tách ra được nữa (giống
như mực có các màu khác nhau
được trộn với nhau). Các nhân tố di
truyền quyết định màu đỏ và lam
được cho là pha trộn vĩnh viễn với
nhau thành màu mới là tím. Tiếp
đó, một thế kỷ sau khi Kolreuter
hoàn thành công trình của mình thì
Mendel bắt đầu công trình của ông.
Mendel mang đến những phương
pháp mới cho các thí nghiệm về
hiện tượng di truyền
Gregor Mendel là một thầy tu
người Áo, không phải là một nhà
khoa học, nhưng có đủ bằng cấp để
tiến hành các nghiên cứu khoa học.
Mặc dù vào năm 1850 ông đã thi
hỏng kỳ thi lấy bằng giảng dạy
khoa học tự nhiên, sau này ông đã
nghiên cứu rất kỹ về vật lý, hóa
học, toán và nhiều mặt khác nhau
của sinh học tại đại học Vienna.
Các công trình của ông trong vật lý
và toán học có lẽ đã dẫn ông tới
việc áp dụng các phương pháp định
tính & thực nghiệm vào việc
nghiên cứu di truyền. Và những
phương pháp này là những yếu tố
rất quan trọng cho sự thành công
của ông.

Mendel tìm ra câu trả lời cho các
nguyên lý cơ bản của di truyền
trong khoảng thời gian khoảng 9
năm. Công trình của ông được gói
gọn trong một bài giảng vào năm
1865 và một bài báo chi tiết vào
năm 1866. Bài báo của Mendel
xuất hiện trên một tạp chí được 120
thư viện đặt và ông gửi các bản sao
(mà ông lấy được 40 bản) đến một
số nhà học giả tiếng tăm. Tuy nhiên
lý thuyết của ông đã không được
chấp nhận. Thực ra là nó đã bị phớt
lờ.
Khó khăn chủ yếu là hầu hết các
nhà sinh học nổi trội nhất thời đó
không có thói quen tư duy theo các
thuật ngữ toán học, thậm chí những
thuật ngữ đơn giản mà Mendel sử
dụng. Thậm chí Charles Darwin ,
người cho rằng thuyết tiến hóa bởi
chọn lọc tự nhiên phụ thuộc sự
khác biệt di truyền giữa các cá thể
đã không hiểu được ý nghĩa những
phát hiện của Mendel. Thực ra
Darwin đã tiến hành các thí nghiệm
chọn giống trên cây hoa mõm chó
giống như Mendel tiến hành trên
đậu và thu được số liệu giống với
Mendel, nhưng ông đã không hiểu

được bản chất và vẫn dựa vào khái
niệm pha trộn. Ngoài ra Mendel
không được tín nhiệm lắm với tư
cách là một nhà Sinh học; Sự thực
là các điểm thấp nhất của ông là ở
môn Sinh học! Vì bất kỳ lý do gì,
các bài báo tiên phong của Mendel
không có ảnh hưởng rõ rệt gì đến
giới khoa học trong hơn 30 năm.
Thế rồi vào năm 1900, sau khi
giảm phân được quan sát và mô tả,
các phát hiện của Mendel đột nhiên
trở thành rất quan trọng khi kết quả
của các thí nghiệm độc lập bởi ba
nhà di truyền học thực vật, Hugo
DeVries, Carl Correns và Erich von
Tschemak. Mỗi người tiến hành các
thí nghiệm lai và thu được các số
liệu định lượng về con cái; mỗi
người đều đăng các khám phá của
mình vào năm 1900, mỗi người đều
trích dẫn bài báo năm 1866 của
Mendel. Họ ngay lập tức nhận ra
rằng NST và giảm phân cho ta một
giải thích có tính vật chất cho
thuyết mà Mendel đã đề xuất để
giải thích các số liệu từ các phép lai
của ông. Trong quá trình chúng ta
xem xét kỹ công trình của ông,
trước tiên chúng ta sẽ mô tả các thí

nghiệm và kết luận của ông, sau đó
là các giải thích trên cơ sở NST các
thuyết của ông.

×