Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Những bào quan xử lý thông tin pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.04 KB, 8 trang )


Những bào quan xử lý thông tin



Các sinh vật sống được là nhờ vào
sự xử lý các thông tin- bên trong cơ
thể, tín hiệu ngoài môi trường và
lưu trữ các tín hiệu- để đáp ứng với
việc thay đổi các điều kiện bên
ngoài và giữ ổn định môi trường
bên trong tế bào. Trong tế bào
thông tin được lưu trữ trong trình tự
DNA. Hầu hết DNA ở tế bào
eukaryote gói gọn trong nhân.
Thông tin được dịch mã từ DNA
sang protein tại robosome. Quá
trình này được trình bày kỹ lưỡng ở
chương 12.
Nhân tế bào chứa hầu hết DNA của
tế bào
Nhân tế bào là loại bào quan lớn
nhất trong tế bào . Nhân của hầu
hết tế bào động vật khoảng 5µm
gần như là lớn hơn rất nhiều so với
toàn bộ tế bào prokaryote.


Nhân tế bào
Nhân có 1 số vai trò trong tế bào
như


-Là nơi diễn ra quá trình nhân đôi
DNA
-Nhân là nơi chứa thông tin di
truyền điều khiển mọi hoạt động
sống của tế bào
-Có một vùng được gọi là nhân con
là nơi bắt đầu tổng hợp ribosome từ
protein đặc hiệu và RNA
Nhân được bao bọc bởi hai màng,
kết hợp với nhau để thành màng
nhân. Giữa hai màng nhân có một
khỏang trống khoảng 10-20 nm,
trên màng nhân có các lỗ màng
nhân có diện tích khoả 9nm, lỗ
màng nhân này có nhiệm vụ làm
cầu nối giữa bên trong nhân và tế
bào chất.
Tại những lỗ này màng ngoài của
màng nhân dính trực tiếp với màng
trong. Mỗi lỗ được bao bọc bởi một
giếng có cấu tạo từ tám protein xếp
thành những hạt nhỏ trong một
hình bát giác nơi mà màng trong và
màng ngoài kết hợp với nhau. RNA
và protein đi qua những lỗ này để
vào hoặc ra khỏi nhân
Tại những vị trí nhất định, màng
ngoài của màng nhân đính vào tế
bào chất và tiếp tục dính với các
màng của bào quan khác,như màng

của lưới nội chất(sẽ được nói đến ở
phần sau)
Trong nhân, DNA kết hợp với
protein để hình thành các sợi có cấu
tạo phức tạp gọi là chromatin.
Chromatin có cấp tạo rất dài, mỏng,
như những sợi chỉ rối. Trước khi
thực hiện phân bào, chromatin kết
hợp lại thành những sợi riêng lẽ có
thể thấy được cấu trúc gọi là
chromosome
Bao quanh các sợi chromatin là
nước và các chất hoà tan khác
thường được gọi là dịch nhân.
Trong dịch nhân có một hệ thống
protein cấu trúc được gọi là nuclear
matrix xắp xếp các chromatin. Tại
vùng ngoại vi của nhân, chromatin
kết hợp với một mạng lưới protein
gọi là nuclear lamina, được tạo
thành bởi sự polymer hoá của
protein gọi là lamins. Nuclear
lamina tạo nên hình dạng của nhân
nhờ chúng gắn cả với chromatin và
màng nhân
Trong hầu hết đời sống của tế bào,
màng nhân có cấu trúc ổn định. Khi
tế bào phân chia, màng nhân chia ra
thành nhiều đoạn nhỏ tại các lỗ.
Màng nhân hình thành lại cấu trúc

cũ khi quá trình nhân đôi DNA kết
thúc
Ribosome là nơi tổng hợp protein
Trong tế bào procaryote, các
ribosome di chuyển tự do trong tế
bào chất. Trong tế bào eukaryote
thì chúng có thể tìm thấy tại 2 nơi:
trong nguyên sinh chất nơi
ribosome có thể tự do hoặc gắn lên
mạng nội chất tạo thành mạng nội
chất nhám (trình bày ở đoạn sau);
và trong ty thể và lục thể, nơi năng
lượng được sản sinh. Trong mỗi
nơi, ribosome là nơi mà protein
được tổng hợp từ dưới sự điều
khiển trực tiếp từ các nucleic acid.
Mặc dù có vẻ như chúng quá nhỏ
bé khi so sánh với tế bào, nhưng
ribosome là một cỗ máy máy khổng
lồ tạo nên một lượng lớn các phân
tử. Ribosome của eukaryote và
prokaryote gần giống nhau, chúng
đều được cấu thành từ hai đơn vị có
kích thước khác nhau. Ribosome
của eukaryote có vẻ lớn hơn, nhưng
cấu trúc ribosome của prokaryotic
được nghiên cứu rõ hơn. Theo cấu
tạo hoá học ribosome bao gồm
ribosomal RNA (rRNA) một loại
RNA đặc và hơn 50 loại protein

khác nhau được liên kết với nhau
nhờ các liên kết không phải liên kết
cộng hóa trị.

×