Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Cẩn thận khi dùng thuốc chữa viêm tai giữa ở trẻ em pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.14 KB, 8 trang )

Cẩn thận khi dùng thuốc chữa
viêm tai giữa ở trẻ em


Viêm tai giữa là hiện tượng niêm mạc tai giữa bị xung
huyết và tạo mủ. Nguyên nhân thường do viêm V.A.
Chính vì thế mà viêm tai giữa gặp chủ yếu ở trẻ dưới 2
tuổi.
Có hai loại chính là viêm tai giữa cấp và viêm tai giữa mạn
tính. Điều trị viêm tai giữa cấp thế nào để không chuyển

thành viêm tai giữa mạn tính? Điều lưu ý trong điều trị
viêm tai giữa cho trẻ em là việc sử dụng thuốc sao cho an
toàn và hợp lý, tránh tổn thương về sức nghe cho trẻ vì nếu
không nghe được trẻ sẽ không nói được.

Điều trị viêm tai giữa cấp
Điều trị viêm tai giữa cấp tuỳ thuộc vào các giai đoạn:
Giai đoạn xung huyết: Điều trị nội khoa là chính.
Toàn thân:
- Kháng sinh uống hoặc tiêm: Dựa vào các kết quả điều tra
loại vi khuẩn gây bệnh cho viêm tai giữa cấp mà thầy thuốc
tai mũi họng hay sử dụng nhóm b lac tam (amocycillin,
cephalosporin các thế hệ I, II, III).
Nên tránh sử dụng những kháng sinh có khả năng gây độc
ốc tai: nhóm aminoglucosid như gentamycin, neomycin,
amikacin… cho trẻ dưới mọi hình thức, đặc biệt là đường
tiêm, không để trẻ bị điếc, câm do thuốc.
- Thuốc chống viêm corticoid ngắn ngày (7-10 ngày) với
liều duy trì 0,5-1mg/kg cân nặng hoặc thuốc kháng viêm
non-steroid, thuốc chống viêm dạng men như


chymotrypsin, serratiopeptidase… là những enzym thủy
phân protein nhằm ngăn chặn các triệu chứng khác nhau do
viêm, để phục hồi cấu trúc của mô bị tổn thương càng
nhanh càng tốt, ngăn chặn tiến triển viêm, đồng thời hỗ trợ
cùng với kháng sinh tiêu diệt các loại vi khuẩn gây viêm.
- Thuốc hạ sốt, giảm đau liều dùng theo cân nặng của trẻ.
Thuốc thông dụng và tương đối an toàn là paracetamol, liều
sử dụng thường là 10mg/kg cân nặng.
- Có thể sử dụng thêm kháng histamin H1 (siro phenergan
1%, siro clarytin) để giảm hiện tượng xuất tiết của niêm
mạc viêm, nhất là trên những trẻ khai thác được tiền sử dị
ứng.
Tại chỗ:
- Tại mũi: Dùng cho trẻ thuốc chống xung huyết, co mạch,
giảm phù nề theo đúng lứa tuổi. Thuốc nhỏ mũi được sử
dụng với mục đích là làm sạch hốc mũi và trả lại sự thông
thoáng giữa tai giữa và mũi họng, điều này giúp cho việc
phục hồi niêm mạc viêm trong tai giữa dễ dàng hơn và dẫn
lưu dịch mủ từ tai giữa ra ngoài qua đường vòi tai. Thuốc
hay sử dụng là otrivin 0,05%, sunfarin, collydexa…
- Tại tai: Dùng thuốc giảm đau và kháng viêm tại chỗ.
Giai đoạn ứ mủ
Giai đoạn này cần trích rạch màng nhĩ để giải phóng mủ từ
tai giữa ra ngoài, giảm áp lực cho tai giữa, không để mủ lan
vào phía trong gây viêm xương chũm hoặc lan vào sâu hơn
gây viêm màng não, áp-xe não.
Điều trị nội khoa như giai đoạn viêm tai giữa cấp nhưng sử
dụng thuốc nhỏ tai cho loại viêm tai có thủng màng nhĩ.
Giai đoạn vỡ mủ
Do điều trị không kịp thời, áp lực của mủ làm màng nhĩ vỡ,

lỗ thủng thường ở góc trước, dưới. Lúc này bệnh nhân
được chỉ định làm thuốc tai tại chỗ, có thể kết hợp điều trị
nội khoa nếu bác sĩ thấy cần thiết.
Thuốc nhỏ tai chủ yếu là những loại thuốc được bào chế
dưới dạng dung dịch, một số thuốc bột nguyên chất nhằm
đáp ứng cho việc điều trị những bệnh lý về tai, chủ yếu là
viêm tai. Thuốc nhỏ tai được dùng trong những bệnh lý của
tai ngoài và tai giữa.
Khi dùng thuốc nhỏ tai cần lưu ý: Thuốc nhỏ tai được chia
làm hai loại tuỳ theo thành phần cơ bản của thuốc là thuốc
nhỏ cho những trường hợp viêm tai không thủng màng nhĩ
và những thuốc dùng cho viêm tai có kèm theo thủng màng
nhĩ. Do khi thuốc vào tai giữa sẽ thấm qua cửa sổ ngăn
cách với tai trong gây tổn thương ốc tai gây điếc nặng
không hồi phục.
Thuốc dùng cho viêm tai không thủng màng nhĩ thường
chứa một trong những kháng sinh thuộc nhóm
aminoglucosid. Ví dụ như polydexa với thành phần gồm
néomycin sulfate, polymycin B sulfate, dexamethasone
métasulfobenzoate. Thuốc được phối hợp giữa kháng sinh
và kháng viêm, thuốc có tác dụng như một trị liệu tại chỗ
và đa năng do tính kháng viêm của thuốc dùng phối hợp
dexamethasone. Do có sự phối hợp của hai thuốc kháng
sinh là néomycine và polymycine cho phép mở rộng phổ
kháng khuẩn trên các mầm bệnh gram dương và gram âm
là các tác nhân gây bệnh của viêm tai giữa. Néomycine tiêu
diệt liên cầu, Echerichia coli, Klebsiella pneumonia,
Hemophilus influenza, trong khi đó polymycine tác động
trên các mầm bệnh gram âm…
Otipax là loại thuốc chứa phenazone và lidocain HCL có

tác dụng chống viêm và giảm đau tại chỗ được dùng trong
những trường hợp viêm tai giữa cấp giai đoạn xung huyết.
Thuốc không đi vào máu trừ trường hợp màng tai bị rách
hay xây xước. Phải kiểm tra thật kỹ màng nhĩ của bệnh
nhân trước khi cho thuốc. Trường hợp màng nhĩ bị rách,
thuốc tiếp xúc với các cấu trúc tai giữa và tai trong gây các
tai biến nặng nề như điếc, rối loạn thăng bằng… Nếu đã có
biểu hiện ngoài da khi quá mẫn cảm với thành phần kháng
sinh có trong thuốc nhỏ tai, cần thận trọng khi dùng phối
hợp kháng sinh cùng nhóm đó qua đường uống.
Thuốc dùng cho trường hợp màng nhĩ bị thủng được bào
chế bằng những kháng sinh có tính an toàn cao cho ốc tai.
Otofa được bào chế với thành phần chính là rifamycin
sodium. Thuốc có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn gram dương
và gram âm trong các bệnh nhiễm trùng tai giữa. Rifamycin
gây tác động trên các ARN polymerase phụ thuộc AND
bằng cách hình thành một phức hợp ổn định gây ức chế sự
tăng trưởng của vi khuẩn.
Ciplox, efexin là một loại thuốc nhỏ tai chứa kháng sinh
ciprofloxacin – nhóm quinolon tác động chủ yếu lên các vi
khuẩn gram âm và một số vi khuẩn gram dương.
Điều trị viêm tai giữa mạn tính
Viêm tai giữa mạn tính thông thường xuất hiện ở trẻ lớn,
trên 7 tuổi do viêm tai giữa cấp điều trị không đúng hoặc
do mắc phải những vi khuẩn có độc tính cao. Viêm tai giữa
mạn là viêm tai có hiện tượng chảy mủ kéo dài trên 3 tuần
và màng nhĩ bị thủng. Chính vì thế nên thỉnh thoảng những
người bị viêm tai giữa mạn tính có hiện tượng chảy dịch
tai, đau tai… Giai đoạn này của viêm tai giữa mạn tính
được sử dụng các thuốc giống như trong giai đoạn vỡ mủ

của viêm tai giữa cấp.
Việc chẩn đoán và điều trị viêm tai giữa phải được thực
hiện tại các cơ sở có chuyên khoa tai mũi họng.
Thời gian điều trị không nên quá 10 ngày, nếu quá thời hạn
nên đánh giá lại phương pháp điều trị. Theo nguyên tắc
chung không nên dùng dưới áp suất và ngâm ấm đến nhiệt
độ khoảng 20-250C, tránh các kích thích về áp suất và nhiệt
lên bộ phận tiền đình của tai gây chóng mặt. Tuy nhiên,
cũng không có bất kỳ thuốc nào là an toàn tuyệt đối, do vậy
việc ngừng ngay dùng thuốc nếu thấy cơ thể có những dấu
hiệu bất thường như ù tai, đau nhức tai, cảm giác chóng
mặt thì phải thông báo kịp thời, phối hợp với bác sĩ điều trị
để xử trí.

×