Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

“Bổ trung ích khí”: Bài thuốc quý chữa bệnh trĩ potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.13 KB, 3 trang )

“Bổ trung ích khí”: Bài thuốc
quý chữa bệnh trĩ

Theo YHCT, nguyên nhân phát sinh bệnh trĩ là do: “Ham ăn đồ hậu vị, hoặc do
rượu chè, dâm dục, lo nghĩ uất nhiệt tích độc mà sinh ra ” (Danh y Tuệ Tĩnh).
Trong cơ thể chúng ta “tạng tỳ có quan hệ biểu lý với phủ vị. Tạng tỳ có chức năng vận
hóa thủy cốc, chủ về cơ nhục, thống và nhiếp huyết Lo nghĩ quá sẽ hại tỳ. Thận dương
nuôi dưỡng tỳ dương ”.
Tỳ hư thì do các nguyên nhân sau: Thứ nhất là do chất dinh dưỡng trong thức ăn không
đầy đủ hoặc do ăn uống bừa bãi. Thứ mà các danh y gọi là “ham ăn đồ hậu vị” chính là
các loại thức ăn, uống cay nóng như tiêu, ớt, cà phê, rượu, chè làm chức năng vận hóa
của tạng tỳ bị tổn thương. Thứ hai là do tình chí con người bị kích thích quá mức, đã
được YHCT đúc kết là “lo quá hại tỳ”. Thứ ba là do tạng thận vì “sắc dục quá độ” làm
cho nguồn tinh khí bị hao tán, nên không đủ để đưa lên nuôi dưỡng tỳ dương. Tỳ đã hư
thì làm cho vị (có quan hệ biểu lý với tỳ) cũng suy theo. Khi tỳ vị đã suy yếu thì không
vận hóa được thủy cốc, nên tinh hoa đồ ăn uống không biến thành chất dinh dưỡng nuôi
cơ thể mà thành thấp nhiệt, đàm trọc ứ đọng làm phát sinh các búi trĩ, tạo thành dịch tiết
gây ngứa ngáy vùng hậu môn. Tỳ hư không làm chủ được cơ nhục, làm cơ nhục bị nhẽo
(khí hư gây hạ hãm), nên các búi trĩ cùng khối da, cơ vùng hậu môn sa xuống. Tỳ hư
không thống nhiếp được huyết, làm chảy máu khi đi đại tiện. Nhiệt tích đọng ở trường vị
làm hao huyết, khô tân dịch nên đại tiện bị táo bón.
Như vậy có thể khẳng định rằng tất cả các nguyên nhân phát sinh bệnh trĩ đều tác động
đến tỳ vị làm tỳ vị hư yếu mới làm bệnh trĩ bùng phát. Vì vậy, để chữa trị và dự phòng sự
tái phát của bệnh trĩ, ngoài việc điều trị triệu chứng (làm tiêu các búi trĩ, chống táo bón,
chống chảy máu ) thì phải tập trung vào điều trị gốc bệnh, tức là phải điều chỉnh chế độ
ăn uống phù hợp, giữ được trạng thái tâm lý vui vẻ, thoải mái, có quan hệ tình dục chừng
mực, và đặc biệt là phải lấy việc bổ dưỡng tỳ vị làm chính. Trong số hàng nghìn bài
thuốc cổ phương của YHCT, có một bài thuốc nếu biết gia giảm thích hợp, thì có thể vừa
điều trị triệu chứng vừa điều trị nguyên nhân bệnh trĩ rất hiệu nghiệm, đó là bài “Bổ trung
ích khí” do Lý Đông Viên, một danh y Trung Quốc chế ra. Bài thuốc gồm các vị sau:
Hoàng kỳ (tẩm mật ong, sao thơm) 12g, nhân sâm 4g (có thể thay bằng bố chính sâm


12g), bạch truật (sao với gạo) 8g, đương quy (tẩm rượu rồi chưng lên) 8g, cam thảo (sao
với mật ong) 4g, thăng ma (sao với rượu) 6g, trần bì (sao thơm) 6g, sài hồ 6g. Nếu đại
tiện ra máu nhiều, gia thêm cỏ nhọ nồi (sao đen) 8g, hoa hòe (sao thơm) 8g. Nếu nóng
rát, tiết dịch nhiều ở vùng hậu môn gia hoàng bá (sao vàng) 6g.
Bài “Bổ trung ích khí” gia giảm trên có tác dụng như sau:
- Điều trị các triệu chứng:
Làm mất cảm giác tức nặng vùng hậu môn - trực tràng, nâng các búi trĩ và tổ chức da cơ
lên có thăng ma, sài hồ. Chống táo bón có đương quy, hoàng bá, hoa hòe. Trừ đàm thấp
gây tiết dịch, viêm nhiễm có trần bì, hoàng bá, thăng ma. Làm sạch tổ chức hoại tử và
sớm tái tạo tổ chức mới nhờ hoàng kỳ, đương quy, bạch truật. Làm bền vững thành mạch,
chống chảy máu nhờ cỏ mực, hoa hòe.
- Điều trị nguyên nhân:
Như đã phân tích, muốn điều trị và dự phòng tái phát bệnh trĩ, cần phải chữa vào gốc
bệnh, tức là phải ưu tiên bổ dưỡng tỳ vị là chính. Vì vậy, cấu tạo của bài thuốc có đến 5
vị thuốc để kiện tỳ, bổ vị, kích thích ăn uống là hoàng kỳ, bạch truật, cam thảo, nhân sâm,
trần bì.
Với tác dụng như vậy nên bài thuốc “Bổ trung ích khí” gia giảm điều trị hiệu nghiệm
bệnh trĩ nội độ I và II. Nếu trĩ độ III, IV, trĩ hỗn hợp, trĩ ngoại thì vừa dùng các phương
pháp khác làm rụng các búi trĩ, đồng thời uống kèm với bài thuốc này cho đến khi lành
vết thương. Để phòng ngừa bệnh trĩ tái phát, những lúc người bệnh có cảm giác tức nặng,
nóng rát vùng hậu môn hoặc đại tiện táo bón nên uống từ 3-5 thang “Bổ trung ích khí”
gia giảm cho mỗi đợt.
Cách dùng: Nếu dùng thuốc thang thì sắc như sau: Nước nhất đổ vào 3 chén nước sắc
thành 1 chén, nước nhì đổ vào 2 chén nước sắc thành 8/10 chén hòa chung chia 2 lần
uống sau khi ăn cơm.
Nếu dùng tễ: Mỗi ngày uống 20-30g chia thành 2 lần sau khi ăn cơm.
Tuy nhiên đối với các bệnh nhân bị xuất huyết ở phần trên như ho ra máu, chảy máu cam,
ho, suyễn, bệnh kiết lỵ, người gầy yếu, nóng bức, hay ra mồ hôi thì không dùng được
bài này.


×