Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Báo cáo “Tìm hiểu thực trạng bảo mật và an toàn mạng tại Việt Nam” potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.69 KB, 19 trang )

UBND TỈNH AN GIANG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH
BÀI TẬP NHÓM
Môn: THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Đề tài:
Tìm hiểu thực trạng bảo mật và an toàn mạng
tại Việt Nam
GVHD: ThS. Nguyễn Hữu Tâm Nhóm thực hiện
1.Huỳnh Phước Lộc MSSV: DKD083013
2.Lê Đức Hoàng Minh MSSV: DKD083016
3.Tiết Thị Mỹ Trinh MSSV: DKD083044
4.Bạch Phước Ngời MSSV: DKD083021

1
2010
Mục lục
Thư rác (điện tử) 6
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Với nhu cầu trao đổi thông tin, bắt buộc các cơ quan, tổ chức phải hoà
mình
vào

mạng
toàn cầu Internet. An toàn và bảo mật thông tin là một trong
những vấn đề quan
trọng
hàng đầu, khi thực hiện kết nối mạng nội bộ của các
cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức với


Internet.
Ngày nay, các biện pháp an toàn
thông tin cho máy tính cá nhân cũng như các mạng nội bộ
đã
được nghiên cứu
và triển khai. Tuy nhiên, vẫn thường xuyên có các mạng bị tấn công, có các
tổ
chức bị đánh cắp thông tin,…gây nên những hậu quả vô cùng nghiêm
trọng.
Những vụ tấn công này nhằm vào tất cả các máy tính có mặt trên Internet,
các máy
tính
của các công ty lớn như AT&T, IBM, các trường đại học và các
cơ quan nhà nước, các tổ
chức
quân sự, ngân hàng …một số vụ tấn công với
quy mô khổng lồ (có tới 100.000 máy tính bị
tấn
công). Hơn nữa những con số
này chỉ là phần nổi của tảng băng trôi. Chính vì vậy, nhóm chúng em đã chọn đề
tài: “Tìm hiểu thực trạng bảo mật và an toàn mạng tại Việt Nam” để có những
cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn với vấn đề này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng bảo mật và an toàn mạng tại Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng bảo mật và an toàn mạng tại Việt Nam.
- Đề ra các biện pháp nhằm nâng cao bảo mật và an toàn mạng tại Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
a. Phạm vi về không gian: quốc gia Việt Nam.
b. Phạm vi về thời gian: số liệu được sử dụng trong đề tài từ 2005 đến 2010
c. Phạm vi về nội dung: bảo mật và an toàn mạng (lĩnh vực công nghệ

thông tin) đối với cá nhân và doanh nghiệp.
4. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp thu thập số liệu: số liệu sử dụng trong đề tài là số liệu thu
thập trên Internet.
b. Phương pháp phân tích:
- Mục tiêu 1: Sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn để thu thập thông
tin trên Internet.
- Mục tiêu 2: Sử dụng phương pháp mô tả để trình bày, phân tích vấn đề
an toàn, bảo mật mạng tại Việt Nam.
- Mục tiêu 3: Sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn, tìm kiếm các
giải pháp có sẵn trên Internet đã được áp dụng hiệu quả.
PHẦN NỘI DUNG
I.Một số định nghĩa, khái niệm liên quan đến đề tài.
1.Bảo mật thông tin là gì ?
Bảo mật là bảo vệ an toàn những thông tin của bạn trước những "tay"
chuyên rình mò thông tin của người khác. Với hệ thống thông tin của doanh
nghiệp, thông tin chính là tiền của bạn. Với website của doanh nghiệp của bạn,
3
việc có thể thay đổi thông tin trên đó sẽ ảnh hưởng xấu đến thương hiệu của bạn.
Nếu bạn ứng dụng thương mại điện tử, thiệt hại sẽ rất lớn nếu website của bạn bị
hack, khách hàng sẽ không bao giờ tin tưởng để cung cấp những thông tin cá
nhân trên website của bạn nữa.
Tại sao phải bảo mật thông tin?
Bảo vệ chống lại những tấn công mạng từ bên trong và bên ngoài . Các
tấn công có thể xuất phát từ cả hai phía, từ bên trong và từ bên ngoài tường lửa
của doanh nghiệp của bạn. Một hệ thống an ninh hiệu quả sẽ giám sát tất cả các
hoạt động mạng, cảnh báo về những hành động vi phạm và thực hiện những phản
ứng thích hợp.
Đảm bảo tính riêng tư của tất cả các liên lạc, ở bất cứ đâu và vào bất cứ
lúc nào .Nhân viên có thể truy cập vào mạng từ nhà hoặc trên đường đi với sự

đảm bảo rằng hoạt động truyền thông của họ vẫn được riêng tư và được bảo vệ.
Kiểm soát truy cập thông tin bằng cách xác định chính xác người dùng và
hệ thống của họ .Các doanh nghiệp có thể đặt ra các quy tắc của riêng họ về truy
cập dữ liệu. Phê duyệt hoặc từ chối có thể được cấp trên cơ sở danh tính người
dùng, chức năng công việc hoặc các tiêu chí kinh doanh cụ thể khác.
Giúp bạn trở nên tin cậy hơn .Bởi vì các công nghệ an ninh cho phép hệ
thống của bạn ngăn chặn những dạng tấn công đã biết và thích ứng với những
dạng tấn công mới, nhân viên, khách hàng và các doanh nghiệp có thể an tâm
rằng dữ liệu của họ được an toàn.
2. An ninh mạng là gì ?
Có những lúc, ví dụ như khi bạn rời văn phòng về nhà khi kết thúc ngày
làm việc, bạn sẽ bật hệ thống cảnh báo an ninh và đóng cửa để bảo vệ văn phòng
và thiết bị. Dường như bạn cũng sẽ có một ngăn chứa an toàn hoặc khóa tủ lưu
trữ các tài liệu kinh doanh mật.
Mạng máy tính của bạn cũng đỏi hỏi cùng một mức độ bảo vệ như vậy.
Các công nghệ An ninh Mạng bảo vệ mạng của bạn trước việc đánh cắp
và sử dụng sai mục đích thông tin kinh doanh bí mật và chống lại tấn công bằng
mã độc từ vi rút và sâu máy tính trên mạng Internet. Nếu không có An ninh Mạng
được triển khai, công ty của bạn sẽ gặp rủi ro trước xâm nhập trái phép, sự ngừng
trệ hoạt động của mạng, sự gián đoạn dịch vụ, sự không tuân thủ quy định và
thậm chí là các hành động phạm pháp nữa.
3.Các loại tấn công mạng chủ yếu
Virus (máy tính)
Trong khoa học máy tính, virus máy tính (thường được người sử dụng gọi
tắt là virus) là những chương trình hay đoạn mã được thiết kế để tự nhân bản và
sao chép chính nó vào các đối tượng lây nhiễm khác (file, ổ đĩa, máy tính, ).
Trước đây, virus thường được viết bởi một số người am hiểu về lập trình
muốn chứng tỏ khả năng của mình nên thường virus có các hành động như: cho
một chương trình không hoạt động đúng, xóa dữ liệu, làm hỏng ổ cứng, hoặc
gây ra những trò đùa khó chịu.

Những virus mới được viết trong thời gian gần đây không còn thực hiện các
trò đùa hay sự phá hoại đối máy tính của nạn nhân bị lây nhiễm nữa, mà đa phần
4
hướng đến việc lấy cắp các thông tin cá nhân nhạy cảm (các mã số thẻ tín dụng)
mở cửa sau cho tin tặc đột nhập chiếm quyền điều khiển hoặc các hành động
khác nhằm có lợi cho người phát tán virus.
Chiếm trên 90% số virus đã được phát hiện là nhắm vào hệ thống sử dụng
hệ điều hành họ Windows chỉ đơn giản bởi hệ điều hành này được sử dụng nhiều
nhất trên thến giới. Do tính thông dụng của Windows nên các tin tặc thường tập
trung hướng vào chúng nhiều hơn là các hệ điều hành khác. Cũng có quan điểm
cho rằng Windows có tính bảo mật không tốt bằng các hệ điều hành khác (như
Linux) nên có nhiều virus hơn, tuy nhiên nếu các hệ điều hành khác cũng thông
dụng như Windows hoặc thị phần các hệ điều hành ngang bằng nhau thì cũng
lượng virus xuất hiện có lẽ cũng tương đương nhau.
Sâu máy tính (worm):
Sâu máy tính (worm): là các chương trình cũng có khả năng tự nhân bản
tự tìm cách lan truyền qua hệ thống mạng (thường là qua hệ thống thư điện tử).
Điểm cần lưu ý ở đây, ngoài tác hại thẳng lên máy bị nhiễm, nhiệm vụ chính của
worm là phá các mạng (network) thông tin, làm giảm khả năng hoạt động hay
ngay cả hủy hoại các mạng này. Nhiều nhà phân tích cho rằng worm khác với
virus, họ nhấn mạnh vào đặc tính phá hoại mạng nhưng ở đây worm được là một
loại virus đặc biệt.
Dẫn chứng : Storm Worm bắt đầu nổi lên và phát tán rộng rãi trên
mạng động theo con người email chứa tệp tin động kèm chính hại.Nếu người
dùng lỡ tay mở tệp tin đính kèm chính nhắp chuột vào đường liên kết đó thì
Storm Worm sẽ ngay lập tức đột nhập vào PC của họ. Chức năng chính của con
sâu máy tính này là "bắt cóc" PC người dùng để phục vụ cho các mục đích đen
tối khác của bọn tin tặc. Xuất hiện lần này là một biến thể hoàn toàn mới của
Storm Worm. Lần này bên cạnh tệp tin đính kèm độc hại, Storm Worm còn ẩn
mình trong các liên hết hoặc trang web độc hại, Dmitri Alperovitch - chuyên gia

nghiên cứu của Secure Computing - cho biết. Đối tượng tấn công chủ yếu lần này
của Storm Worm là blogger và các động đàn. Con sâu máy tính này sẽ tự động
chèn vào các bài viết trên blog hoặc bài viết trên diễn đàn một đường liên kết đến
một trang web độc hại.Secure Computing xếp Storm Worm vào mức độ nguy
hiểm cao. Hình thức phát tán kiểu này thực sự nguy hiểm bởi người dùng nghĩ
rằng các đường liên kết trên blog hoặc các bảng thông báo diễn đàn đều là những
đường liên kết an toàn. Người dùng sẽ không mấy để ý và sẵn sàng nhắp chuột
nếu họ quan tâm.
Phần mềm ác tính (malware):
Phần mềm ác tính còn có tên là ác liệu hoặc phần mềm độc hại, hay được
dùng nguyên gốc Anh ngữ là malware. Chữ gốc Anh ngữ malware là sự ghép của
hai chữ malicious và software
Phần mềm ác tính là một loại phần mềm hệ thống do các tay tin tặc hay
các kẻ nghịch ngợm tạo ra nhằm gây hại cho các máy tính. Tùy theo cách thức
mà tin tặc dùng, sự nguy hại của các lọai phần mềm ác tính có khác nhau từ chỗ
chỉ hiển thị các cửa sổ hù dọa cho đến việc tấn công chiếm máy và lây lan sang
các máy khác như là virus trong cơ thể của các sinh vật.
Trojan Horse
5
Trojan Horse: đây là loại chương trình cũng có tác hại tương tự như
virus chỉ khác là nó không tự nhân bản ra. Như thế, cách lan truyền duy nhất là
thông qua các thư dây chuyền. Để trừ loại này người chủ máy chỉ việc tìm ra tập
tin Trojan horse rồi xóa nó đi là xong. Tuy nhiên, không có nghĩa là không thể có
hai con Trojan horse trên cùng một hệ thống. Chính những kẻ tạo ra các phần
mềm này sẽ sử dụng kỹ năng lập trình của mình để sao lưu thật nhiều con trước
khi phát tán lên mạng. Đây cũng là loại virus cực kỳ nguy hiểm. Nó có thể hủy ổ
cứng, hủy dữ liệu.
Trojan horse, tiếng Anh của Ngựa Troia, là một loại phần mềm ác tính.
Không giống như virus, nó không có chức năng tự sao chép nhưng lại có chức
năng hủy hoại tương tự virus. Một trong những thứ giăng bẫy của Ngựa Troia là

nó tự nhận là giúp cho máy của thân chủ chống lại các virus nhưng thay vì làm
vậy nó quay ra đem virus vào máy.
Trojan horse là loại virus có khả năng thâm nhập trực tiếp vào hệ điều
hành mà không để lại "di chứng". Thường một số chương trình diệt virus có kèm
trình diệt spyware nhưng diệt khá kém đối với các đợt "dịch". Phần mềm gián
điệp là phần mềm chuyên thu thập các thông tin từ các máy chủ (thông thường vì
mục đích thương mại) qua mạng Internet mà không có nhận thức cuả chủ máy .
Trojan horse là chương trình máy tính thường ẩn mình dưới dạng một chương
trình hữu ích và có những chức năng mong muốn, hay ít nhất chúng trông như có
các tính năng này. Một cách bí mật, nó lại tiến hành các thao tác khác không
mong muốn. Những chức năng mong muốn chỉ là phần bề mặt giả tạo nhằm che
dấu cho các thao tác này. Trong thực tế, nhiều Trojan horse chứa đựng các phần
mềm gián điệp nhằm cho phép máy tính thân chủ bị điều khiển từ xa qua hệ
thống mạng.
Spyware
Một cách điển hình, Spyware được cài đặt một cách bí mật như là một bộ
phận kèm theo cuả các chương trình freeware (phần mềm miễn phí) và shareware
(phần mềm tương nhượng) mà người ta có thể tải về từ Internet. Một khi đã cài
đặt, spyware điều phối các hoạt động cuả máy chủ trên Internet và lặng lẽ chuyển
các dữ liệu thông tin đến một máy khác (cuả những tay hacker dĩ nhiên!)
Spyware cũng thu thập tin tức về điạ chỉ e-mail và ngay cả mật khẩu cũng như là
số thẻ tín dụng!!
Spyware "được" cài đặt một cách vô tội vạ khi mà người chủ máy muốn
cài đặt phần mềm khác. Khác nhau căn bản với virus máy tính là Trojan Horse về
mặt kỹ thuật chỉ là một phần mềm thông thường và không có ý nghĩa tự lan
truyền. Các chương trình này chỉ lừa người dùng để tiến hành các thao tác khác
mà thân chủ sẽ không tự nguyện cho phép tiến hành. Ngày nay, các Trojan horse
đã được thêm vào đó các chức năng tự phân tán. Điều này đẩy khái niện Trojan
horse đến gần với khái niệm virus và chúng trở thành khó phân biệt sự khác
nhau.

Thư rác (điện tử)
Thư rác, thư linh tinh, hay còn dược dùng dưới tên gốc Anh ngữ là spam
hay spam mail, là các thư điện tử vô bổ thường chứa các loại quảng cáo được gửi
một cách vô tội vạ và nơi nhận là một danh sách rất dài gửi từ các cá nhân hay
các nhóm người và chất lượng của loại thư này thường thấp. Đôi khi, nó dẫn dụ
người nhẹ dạ, tìm cách đọc số thẻ tín dụng và các tin tức cá nhân của họ.
6
Hacker
Là người có thể viết hay chỉnh sửa phần mềm, phần cứng máy tính bao
gồm lập trình, quản trị và bảo mật. Những người này hiểu rõ hoạt động của hệ
thống máy tính, mạng máy tính và dùng kiến thức bản thân để làm thay đổi,
chỉnh sửa nó với nhiều mục đích tốt xấu khác nhau.
Keylogger:
Là phần mềm ghi lại chuỗi phím gõ của người dùng. Nó có thể hữu ích
cho việc tìm nguồn gốc lỗi sai trong các hệ thống máy tính và đôi khi được dùng
để đo năng suất làm việc của nhân viên văn phòng. Các phần mềm kiểu này rất
hữu dụng cho ngành luật pháp và tình báo - ví dụ, cung cấp một phương tiện để
lấy mật khẩu hoặc các khóa mật mã và nhờ đó qua mắt được các thiết bị an ninh.
Tuy nhiên, các phần mềm keylogger được phổ biến rộng rãi trên Internet và bất
cứ ai cũng có thể sử dụng cho mục đích lấy trộm mật khẩu và chìa khóa mã hóa.
Phishing:
Là một hoạt động phạm tội dùng các kỹ thuật lừa đảo. Kẻ lừa đảo cố gắng
lừa lấy các thông tin nhạy cảm, chẳng hạn như mật khẩu và thông tin về thẻ tín
dụng, bằng cách giả là một người hoặc một doanh nghiệp đáng tin cậy trong một
giao dịch điện tử. Phishing thường được thực hiện bằng cách sử dụng thư điện tử
hoặc tin nhắn, đôi khi còn sử dụng cả điện thoại.
Rootkit:
Là một bộ công cụ phần mềm dành cho việc che dấu các tiến trình đang
chạy, các file hoặc dữ liệu hệ thống. Rootkit có nguồn gốc từ các ứng dụng tương
đối hiền, nhưng những năm gần đây, rootkit đã bị sử dụng ngày càng nhiều bởi

các phần mềm ác tính, giúp kẻ xâm nhập hệ thống giữ được đường truy nhập một
hệ thống trong khi tránh bị phát hiện. Người ta đã biết đến các rootkit dành cho
nhiều hệ điều hành khác nhau chẳng hạn Linux, Solaris và một số phiên bản của
Microsoft Windows. Các rootkit thường sửa đổi một số phần của hệ điều hành
hoặc tự cài đặt chúng thành các driver hay các môdule trong nhân hệ điều hành
(kernel module).
Phần mềm tống tiền (Ransomware):
Là loại phần mềm sử dụng một hệ thống mật mã để mã hóa dữ liệu thuộc
về một cá nhân và đòi tiền chuộc thì mới khôi phục lại.
Cửa hậu (Backdoor):
Trong một hệ thống máy tính, cửa hậu là một phương pháp vượt qua thủ
tục chứng thực người dùng thông thường hoặc để giữ đường truy nhập từ xa tới
một máy tính, trong khi cố gắng không bị phát hiện bởi việc giám sát thông
thường. Cửa hậu có thể có hình thức một chương trình được cài đặt (ví dụ Back
Orifice hoặc cửa hậu rookit Sony/BMG rootkit được cài đặt khi một đĩa bất kỳ
trong số hàng triệu đĩa CD nhạc của Sony được chơi trên một máy tính chạy
Windows), hoặc có thể là một sửa đổi đối với một chương trình hợp pháp - đó là
khi nó đi kèm với Trojan.
7
II. Những vấn đề an ninh và bảo mật tại Việt Nam trong những năm gần đây .
Năm 2006 , là năm bùng phát virus và hacker “nội”! Chưa khi nào an ninh mạng
VN lại được “bàn” đến nhiều như năm vừa qua. Rất nhiều sự kiện chấn động xuất phát
từ trong nước đã xảy ra, từ đại dịch virus “nội” đến sự bùng phát của hacker “nội”.
Theo thống kê của Trung tâm an ninh mạng BKIS, tổng cộng đã có 41 loại virus “nội”
(cả các virus biến thể) được phát tán trên mạng, trong đó 37 loại lây lan qua Yahoo!
Messenger và bốn loại còn lại qua cổng giao tiếp USB.
Hầu hết virus phát tán thông qua Yahoo! Messenger đều sử dụng chung một cách thức
là lây lan qua sơ hở của những người sử dụng. Sau khi một máy tính đã bị nhiễm loại
virus này, virus sẽ tự động dò tìm địa chỉ có trong danh sách liên lạc qua Yahoo!
Messenger của nạn nhân rồi gửi những đường liên kết mời chào rất hấp dẫn tới các địa

chỉ đó. Người nhận được sẽ bị đánh lừa là từ bạn chat của mình gửi và dễ dàng kích hoạt
vào đường liên kết đó. Kết quả là máy tính của họ cũng bị nhiễm virus, cứ như thế virus
nhanh chóng lây lan qua hàng trăm ngàn máy tính chỉ trong thời gian ngắn.
Cũng trong năm 2006 , hàng loạt website của các công ty, tổ chức trong nước (Công ty
Việt Cơ, Công ty Nhân Hòa, VMS MobiFone, Hòa Bình, Bộ Giáo dục - đào tạo, Liên
đoàn Bóng đá VN) cũng đã bị các hacker “nội” tấn công. Các hình thức tấn công chủ
yếu là tấn công từ chối dịch vụ (DDoS), thông qua lỗ hổng bảo mật, cài phần mềm gián
điệp
Động cơ tấn công của các hacker cũng khác nhau, có trường hợp tấn công với mục đích
phá hoại nhưng cũng có trường hợp chỉ là để chứng tỏ khả năng của mình hoặc với mục
đích cảnh báo. Nhưng dù với mục đích nào đi nữa thì họ cũng đã vi phạm pháp luật vì
xâm nhập trái phép tài sản của cá nhân, tổ chức khác.
Năm 2009 được coi là một năm tồi tệ của ngành bảo mật PC, các cuộc tấn công
trực tuyến trong năm ngoái đã tạo ra nhiều mã độc hơn 20 năm trước cộng lại. Rõ ràng,
điều này có nghĩa là trong lĩnh vực bảo mật máy tính, các quy tắc đã thay đổi và người
dùng không còn tin tưởng vào các phần mềm diệt virus theo kiểu truyền thống và tường
lửa bảo vệ máy tính. Thay vào đó, để bắt kịp các mối đe dọa mới, người dùng cần một
phương pháp bảo mật mới.
Trong vài năm qua, các phần mềm bảo mật đã được cải thiện kể cả việc tăng cường các
phương pháp phát hiện truyền thống và bổ sung thêm phân tích hành vi. Công nghệ mới
phát hiện mã độc dựa trên cách thức mã độc hoạt động trên máy tính của người dùng.
Theo Microsoft : Tình hình an ninh mạng năm 2010 ngày càng phức tạp và tiềm ẩn
nhiều nguy cơ . Bảng báo cáo thứ 8 về Bảo mật (Security Intelligence Report- SIRv8)
được Microsoft công bố cho thấy tội phạm mạng ngày càng trở nên tinh vi hơn khi thực
hiện việc mô hình hóa hoạt động của chúng dưới dạng các quy trình nghiệp vụ phổ biến
để lừa người sử dụng nhằm đánh cắp và gian lận các thông tin quan trọng.
Tội phạm mạng đang tiếp tục nâng cao năng lực triển khai tấn công của chúng, bao gồm
cả việc “sản phẩm hóa” và bổ sung thêm nhiều tính năng vào các mã độc nhằm tấn công
vào những đối tượng cụ thể.


“SIRv8 đưa ra những dẫn chứng thuyết phục rằng tội phạm mạng đang trở nên phức tạp
hơn và đang đóng gói các tấn công trực tuyến để tạo ra, cập nhật và duy trì các bộ công
8
cụ khai thác được bán cho những tội phạm khác để tiếp tục triển khai tấn công. Những
kẻ sản xuất mã độc liên tục cải tiến các “sản phẩm” của chúng thông qua thay thế các
công cụ tấn công yếu kém bằng những công cụ mới,” ông Tyson Dowd,Giám đốc cao
cấp khối Bảo mật, tập đoàn Microsoft, khu vực Châu Á Thái Bình Dương cho biết.
Báo cáo cũng cho thấy rằng các mạng lưới doanh nghiệp tiếp tục dễ bị tấn công, và
đồng thời, người dùng máy tính gia đình cũng tiếp xúc rất nhiều với phần mềm độc hại
và các mối đe dọa từ mạng xã hội. Ứng dụng lừa đảo gia tăng đáng kể trong e-mail và
các phần mềm độc hại, đội lốt là một ứng dụng bảo mật hợp pháp nhằm đánh lừa người
sử dụng vẫn tiếp tục là một vấn đề đối với người tiêu dùng.
Ngoài ra, tội phạm mạng tiếp tục đóng gói các tấn công trực tuyến thành các bộ công cụ
(bộ “kits”) để gia tăng tối đa tác hại của chúng. Ví dụ như bộ kit khai thác trình duyệt
Eleonore sử dụng nhiều phương thức khai thác khác nhau để tấn công vào nhiều trình
duyệt từ nhiều nhà cung cấp khác nhau, cũng như là vào các phần mềm ứng dụng phổ
biến trên các hệ thống. Được duy trì và cập nhật giống như là các sản phẩm phổ biến,
từng phiên bản của bộ kit này được phát triển để cung cấp các cấp độ tối ưu về khả năng
ứng dụng, năng lực đánh cắp thông tin, độ tin cậy và năng lực tránh bị phát hiện.
SIRv8 còn xác nhận rằng tin tặc hiện nay chủ yếu có động cơ tài chính và ít hoạt động
đơn lẻ. Thông thường người phát triển mã độc hiếm khi tự thực hiện tấn công mà sẽ hợp
tác với các tội phạm hoạt động trực tuyến trong xã hội đen để mua bán các bộ kit mã
độc và công cụ truy cập máy tính ma.
Cả hai loại đối tượng này đều là những kẻ chuyên nghiệp về các loại tấn công trực
tuyến, chúng thực hiện việc kết nối các máy tính đã bị chiếm dụng lại với nhau để tạo
thành một “phiên bản đen” của mạng Điện toán Đám mây, mang lại cho tội phạm mạng
một tập hợp dịch vụ phi pháp để phát tán các loại thư rác (SPAM) và mã độc, tất cả đều
được cung cấp thông qua một tập hợp các máy tính đã bị lây nhiễm trên phạm vi toàn
cầu.
Điều đáng phấn khởi , cũng trong năm 2010 các doanh nghiệp đã bắt đầu chú ý đến an

ninh mạng, và thiết lập các bức tường "ảo" để chống lại tội phạm mạng. Có tới 94% các
doanh nghiệp khi tiến hành khảo sát, đều thừa nhận rằng tội phạm mạng đối với họ còn
đáng sợ hơn cả thiên tai, khủng bố hoặc các loại tội phạm khác.
Các tổ chức doanh nghiệp cũng cho biết, đa số họ giờ đây đều có kinh nghiệm trong
việc chống lại tội phạm mạng, với 39% các doanh nghiệp cho biết họ đã tổ chức và đào
đạo nhân viên làm việc của mình về chống lại tội phạm mạng. Song song đó, cũng
khuyến cáo các tổ chức, cá nhân nên bảo vệ hạ tầng công nghệ thông tin của mình một
cách cẩn thận hơn, chẳng hạn như bảo đảm an toàn cho các thiết bị đầu cuối của công
ty, và đưa ra các chính sách yêu cầu các nhân viên mình thực hiện đúng các qui trình an
ninh mạng
Nguy hiểm đối với người truy cập mạng Việt Nam
Ngoài các mã độc và những phần mềm tiềm ẩn không mong muốn, người dùng Internet
tại Việt Nam còn đối mặt với những thể loại tấn công khác nữa. Cũng theo ông Hoàng
Chí Thắng, quản trị công ty Comverse, người dùng Internet vẫn gặp nhiều rủi ro từ tội
phạm mạng và các tấn công trực tuyến, và nguyên nhân của việc đó là do mức độ nhận
9
thức về vấn đề này còn thấp. Người dùng Internet cần phải được nâng cao nhận thức về
nhiều loại tấn công khác nhau trên mạng.
Ông nói: "Mức độ nhận thức của người sử dụng Internet Việt Nam về các vấn đề an
toàn trong không gian mạng cần phải được tăng cường, và gia tăng nhận thức về an toàn
an ninh mạng bây giờ là vô cùng cần thiết, để theo kịp với số lượng phát triển nhanh
chóng của công dân. Người sử dụng Internet ngày nay bao gồm cả trẻ em và cha mẹ cần
phải đóng một vai trò tích cực hơn để đảm bảo kinh nghiệm trực tuyến an toàn cho trẻ ".
Ông Thắng cho biết trẻ em dành nhiều thời gian lên internet cho giáo dục, truyền thông,
xã hội hoá và giải trí. Và đồng nghĩa với việc khi trực tuyến các em dành nhiều thời gian
đối mặt với vô số các rủi ro bao gồm cả tội phạm mạng, tội phạm tình dục, cờ bạc trực
tuyến và gần đây nhất là sự ra đời của các mạng xã hội gây nghiện.
Ông phát biểu, “Các bậc cha mẹ có một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo rằng thời
gian hoạt động trên mạng của con cái mình an toàn và được bảo vệ. Một số biện pháp
mà các bậc cha mẹ có thể triển khai bao gồm việc cùng truy cập vào mạng, trao đổi thảo

luận với con em mình, dạy chúng về việc sử dụng một cách có trách nhiệm các tài
nguyên trực tuyến hay sử dụng các ứng dụng cho phép cha mẹ kiểm soát hành vi trực
tuyến của con cái hay các biện pháp khác được các nhà cung cấp dịch vụ đưa ra.”
SIRv8 đưa ra một quan điểm về bối cảnh tấn công an ninh dựa trên một tập hợp dữ liệu
thu thập được từ khoảng 500 triệu máy tính, tạo ra một tập hợp dữ liệu được phân tích
chi tiết tại 26 quốc gia khác nhau.
Những thông tin an ninh được thu thập từ rất nhiều các phần mềm và ứng dụng phổ
biến bao gồm các công cụ Gỡ bỏ Phần mềm Mã độc (Malicious Software Removal Tool
- MSRT), Forefront Online Protection for Exchange và Forefront Client Security, giải
pháp an ninh mạng mới nhất của Microsoft là Microsoft Security Essentials, Windows
Live Hotmail và từ công cụ tìm kiếm Bing.
III. Một số biện pháp nâng cao an toàn, bảo mật mạng.
1) Đối với PC hay laptop cá nhân :
Phần lớn chúng ta đều rất hồn nhiên khi kết nối vào Internet. Chúng ta cảm thấy Internet
quả là một kho dữ liệu vô tận về muôn mặt cuộc sống, và khi lướt qua các trang web
chúng ta không khỏi trầm hiểu một cách hình tượng, cũng giống như xã hội loài người.
Nghĩa là: nó cũng bao gồm tất cả trồ về sự kỳ diệu, sự phi thường mà Internet mang lại
cho cuộc sống của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng phải hết sức cảnh giác. Internet,
những gì là tốt là xấu, là cao quí cũng như thấp hèm, là thật thà cũng như lừa đảo Tuy
nhiên chúng ta lại không thể sống mà không tham gia vào cộng đồng xã hội, không thể
tiến hành cuộc cách mạnh khoa học công nghệ mà lại bỏ qua Internet. Chính vì vậy, bài
viết này có tham vọng giúp các bạn tăng cường các biện pháp bảo vệ chính mình khi
tham gia vào mạng toàn cầu Internet.
TẠO MẬT KHẨU (PASSWORD)
Đừng bao giờ tạo một mật khẩu (password) dễ dàng. Đừng bao giờ tự bằng lòng với
mình và đừng bao giờ, chỉ vì để dễ nhớ mà dùng một hoặc hai password khi bạn đăng
10
ký làm thành viên với nhiều địa chỉ (site) khác nhau. Nhớ đừng dùng những từ dễ đoán
ra, hãy kết hợp các chữ cái, các biểu tượng và con số với nhau, và nhớ phải tạo
password dài hơn 7 ký tự. Bạn không nên dùng ngày sinh, tên người yêu, con cái Hãy

ghi nhớ password của mình nhưng không nên lưu trên máy tính. Bạn không nên dùng
chức năng nhớ password và hãy chịu khó nhập password mỗi lần đăng nhập.
XÓA FILE TẠM CỦA TRÌNH DUYỆT (CACHE )
Bạn không nên giữ các file tạm (cache) mà trình duyệt lưu giữ. Các trình duyệt lưu giữ
các thông tin về những trang mà bạn đã ghé thăm trong một thư mục đặc biệt trên ổ
cứng. Chức năng này là một con dao hai lưỡi: một mặt nó nâng cao tốc duyệt web, mặt
nó lại cho phép bất cứ ai tiếp cận được máy tính của bạn cũng có thể biết được bạn vừa
làm gì. Cho nên, lời khuyên của tôi là bạn nên thường xuyên xóa cache.
VÔ HIỆU HÓA CHÍA SẺ FILE (FILE AND PRINTER SHARING)
Bạn hãy kiểm tra xem tính năng này có hoạt động không. Nếu bạn không dùng mạng
LAN (mạng nội bộ) hoặc không có lý do dặc biệt nào để sử dụng tính năng này thì bạn
hãy vô hiệu hóa nó. Tính năng File and Printer Sharing rất hữu hiệu trong một mạng nội
bộ. Tuy nhiên, đây lại là một cánh cửa rộng mở cho tin tặc (hacker) thâm nhập vào máy
tính của bạn.
KHÔNG GHI LẠI LỊCH SỬ (HISTORY)
Tốt hơn hết là bạn không nên để cho trình duyệt ghi lại những địa chỉ mà bạn đã ghé
thăm. Nếu như bạn đang dùng chung một máy tính thì tính năng ghi lại lịch sử (History)
này quả là rất phiền toái.
QUẢN LÝ COOKIES
Cookie là một chương trình nhỏ đuợc lưu xuống ổ cứng của bạn giúp cho web site nhận
ra bạn khi bạn ghé thăm những lần tiếp sau. Lợi dụng điều này, nhiều cookie đã được
phát triển để theo dõi và ghi lại toàn bộ hoạt động của bạn khi bạn duyệt web. Nguyên
tắc chung là không nên chấp
nhận Cookie từ những nguồn không rõ danh tính.
KHÔNG LIÊN LẠC KHI KHÔNG CẦN THIẾT
Đừng nó chuyện với người lạ khi bạn không có biện pháp bảo vệ nào. Tất nhiên, bạn
luôn nghĩ mình an toàn khi liên lạc với những người bạn biết. Điều này không sai,
nhưng những kẻ gửi thư rác (spammer) và các web site nguy hiểm lợi dụng kẽ hở này và
dùng các phần mềm bí mật (hoặc công khai) để lấy địa chỉ e-mail của bạn thậm chí cả
khi bạn cho rằng mình không hề để lộ địa chỉ e-mail.

LƯỚT WEB MÀ KHÔNG ĐỂ NGƯỜI KHÁC BIẾT
Lời khuyên ở đây là hãy làm cho mình “ẩn danh” trên mạng. Nếu bạn muốn dấu danh
tính của mình khi lướt trên web, hãy sử dụng một trong những dịch vụ ẩn danh vốn có
11
rất nhiều trên Internet. Bạn đừng lo lắng về tính an toàn cả các dịch vụ loại này. Hầu hết,
các dịch vụ ẩn danh đều làm việc theo một nguyên tắc giống nhau: Bạn đăng nhập vào
web site cung cấp dịch vụ và từ đây bạn có thể đi gần như bất cứ đâu trên mạng mà bạn
thích. Dịch vụ ẩn danh dấu đi địa chỉ IP thực sự của bạn, và thay vào đó là địa chỉ của
chính dịch vụ này. Tuy nhiên tốc độ của các dịch vụ này không được thuyết phục lắm.
XÂY DỰNG TƯỜNG LỬA (FIREWALL)
Thật là dại dột nếu chu du trên mạng mà không có một bức tường lửa (firewall) bảo vệ.
Nếu bạn thường xuyên kết nói Internet thì điều đó có nghĩa là bạn phải luôn chuẩn bị để
đối mặt với hacker.
Trước khi thâm nhập vào máy tính của bạn, các hacker thường phải làm một công việc
gọi là “quét địa chỉ” bằng cách gửi tín hiệu (ping) đến các khối địa chỉ IP với mục đích
tìm xem có địa chỉ nào trả lời không. Nếu có lời đáp, tức là máy của bạn đang trực
tuyến, hacker sẽ chuyển sang bước thứ hai là quét các cổng thâm nhập vào máy tính.
Nếu có một cổng bị phát hiện đang mở, hacker sẽ ngay lập tức đột nhập vào máy của
bạn, và thậm chí nắm quyền điều khiển hoàn toàn hệ thống. Việc quét các cổng thâm
nhập vào máy tính cũng giống như việc kẻ trộm điều tra xem cửa chính hay cửa sổ nhà
bạn có bị khóa không.
Tiếp cận Internet với mà không có phương tiện bảo vệ như tường lửa cũng gống như
một đấu sĩ ra trận mà không có giáp sắt. Điều này đã được Micosoft khắc phục trong XP
và Vista , cũng như Window 7 bằng một chương trình tường lửa cá nhân hoạt động
cùng IE rất có hiệu quả.
. Hiện nay, các hãng phần mềm bảo mật thường tích hợp Firewall vào trong các bản
Internet Security hoặc cao hơn , hiệu quả rất tốt không thua gì phần mềm của Microsoft
.
PHÒNG CHỐNG VIRUS
Mặc dù cài đặt một chương trình phòng chống virus thường trực sẽ làm hao tổn phần

nào tài nguyên hệ thống, song hiệu quả mà nó đem lại sẽ giúp bạn tránh được rất nhều
nguy hiểm, thậm chí là cả việc đổ vỡ hệ thống. Máy tính của một người làm việc trên
mạng không thể không có một chương trình phòng chống virus thường trực và được cập
nhật thường xuyên. ( đã trình bày rõ ở phần trên ) .
CẨN TRỌNG VỚI JAVASCRIPT
Bạn phải luôn nhớ rằng càng nhiều thông tin cá nhân của bạn được tiết lộ, thì tính riêng
tư của bạn cành dễ bị vi phạm. Mỗi khi bạn tham gia vào một diễn đàn, hay sử dụng một
dịch vụ nào đó, bạn lại bị yêu cầu cung cấp rất nhiều thông tin cá nhân. Trong nhiều
trường hợp bạn không thể không cung cấp nhưng cách tốt nhất là cung cấp càng ít càng
tốt. Đối với những tùy chọn theo kiểu “optional” thì bạn nên bỏ qua. Đối với thông tin
về số thẻ tín dụng, password bạn không nên chọn chế độ tự động nhớ. Ngoài ra, bạn
cũng nên có vài địa chỉ e-mail dùng dịch vụ Web Mail (hotmail hoặc yahoo) bởi vì nguy
cơ địa chỉ e-mail của bạn bị tiết lộ cho các hãng quảng cáo hoặc spammer là rất cao.
Hãy thận trọng khi dùng địa chỉ e-mail mà ISP như FPT hoặc VDC cung cấp cho bạn để
tham gia các dịch vụ trên mạng. Theo tôi, nếu diễn đàn hoặc dịch vụ mà bạn tham gia
12
không quá khắt khe về tính chính xác của thông tin cá nhân, thì bạn không nên cung cấp
những thông tin thật về mình.
BẢO VỆ E-MAIL VÀ NGĂN CHẶN VIRUS LAN TRÀN QUA E-MAIL
Bạn nên mã hóa để bảo mật e-mail nếu như thông tin trong đó là bí mật. Nhà quản trị hệ
thống mạng, hacker, hay bất cứ ai có tham vọng cũng có thể tiếp cận và đọc thư của bạn.
Cho nên cách tốt nhất để tránh điều này là mã hóa e-mail. Ích lợi có được là chỉ bạn và
người nhận đích thực có thể đọc được thư.
MÃ HÓA HỆ THỐNG MẠNG
Những công cụ dùng trên các máy chủ hoặc máy trạm hiện nay không có được mức độ
an toàn
cao như người dùng mong muốn. Bạn không nên sử dụng các chương trình như Telnet,
POP, hoặc FTP nếu như password truyền qua Internet không có mức độ mã hóa cao
hoặc thông tin của bạn là tối mật. Theo cách này, những thông tin “nhạy cảm” cũng
không nên gửi qua e-mail. Bạn cũng

cần chú ý thêm rằng bất cứ biện pháp mã hóa nào cũng đòi hỏi cả máy khách và máy
chủ hỗ trợ
mới có hiệu lực.
ĐỪNG QUÁ CẢ TIN
Bạn hãy cẩn thận với những chương trình tải xuống (download) từ Internet. Không nên
cài đặt những phần mềm mà bạn lấy từ những địa chỉ chưa được kiểm chứng hoặc ít
người biết đến. Ở những địa chỉ này, rất nhiều phần mềm được quảng cáo với những
tính năng hấp dẫn lại chứa những “con ngựa thành Troy” (Trojan) cực kỳ nguy hiểm
trong nó. Thời gian gần đây có nhiều người dùng Internet phàn nàn về những cú gọi
điện thoại ra nước ngoài mà họ không hề thực hiện. Có nhiều lời giải thích cho vấn đề
này, nhưng một trong những lý do cơ bản là bạn đã vô tình tải
về máy mình một phần mềm có khả năng ngắt kết nối Internet hiện hành của bạn và
thực hiện cuộc gọi tới một số điện thoại nước ngoài nào đó.
CẬP NHẬT HỆ THỐNG THƯỜNG XUYÊN
Bạn nên thường xuyên cập nhật cho hệ thống của mình. Các bản sửa lỗi hay nâng cấp
cho phần mềm hay HĐH là một điều mà bạn phải chấp nhận khi sử dụng Windows.
Thậm chí, cả WinXP vừa mới ra lò hồi cuối tháng 10/2001 với tiếng tăm nổi như cồn,
đã nhanh chóng được Microsoft đưa ra bản sửa lỗi đầu tiên!!! Những cái mà thuật ngữ
chuyên môn gọi là lỗ hổng (hole) này thật không may phần lớn lại do hacker phát hiện
ra. Nói nôn na, miếng vá chỉ xuất hiện khi xăm xe đã bị thủng. Thật là nguy hiểm! Do
vậy cách tốt nhất để hạn chế thiệt hại trước những yếu kém của
phần mềm hay HĐH một cách kịp thời là đăng ký vào dịch vụ tin thư của những diễn
đàn công nghệ thông tin đáng tin cậy.
13
DUYỆT WEB Ở CHẾ ĐỘ NGOẠI TUYẾN (OFFLINE) MỖI KHI CÓ THỂ
Tất nhiên chúng ta đều ngắt kết nối Internet mỗi khi không sử dụng. Tuy nhiên, để an
toàn trước các virus dạng Trojan và Zombie, bạn cần phải tự tay tháo jack cắm mạng
khỏi máy tính. Trong trường hợp máy chủ, bạn hãy loại bỏ những dịch vụ hệ thống
(deamon) không cần thiết hoặc ít sử dụng. Bạn cần chú ý rằng khi mới cài HĐH, theo
ngầm định, các dịch vụ hệ thống luôn chạy ở chế độ nền và hầu hết các hệ thống máy

chủ đều không thông báo cho bạn điều này.
NGĂN CHẶN QUẢNG CÁO TỪ XA
Bạn hãy cài đặt một phần mền ngăn chặn từ xa các mẩu quảng cáo. Những chương trình
loại này sẽ luôn giám sát quá trình ngao du trên mạng của bạn, ngăn chặn từ xa các mẩu
quảng cáo (không cho tải về máy bạn) cũng như ngăn cản các ý đồ sử dụng cookies để
giảm bớt khả năng bạn trở thành mục tiêu khai thác của các nhà quảng cáo trên Internet.
Theo kinh nghiệm của tôi, các chương trình như Pop up Zero Pro , AtGuard, AdSubtract
PRO, ZoneAlarm làm khá tốt nhiệm vụ này.
HIỂN THỊ PHẦN MỞ RỘNG CỦA MỘT TẬP TIN
Nhìn thấy phần mở rộng của một tập tin sẽ giúp bạn tránh được việc chạy những chương
trình như
*. REG hay *. VBS mà bạn đã vô tình download xuống máy tính của mình. Những
chương trình có phần mở rộng là REG hoặc VBS thường có tham vọng can thiệp vào
Registry của Windows hoặc chính là các Trojan.
Giả sử, nhìn thấy một file mang tên “pretty_girl.jpg”, bạn sẽ có thể vội vàng mở ra xem
mà không biết thực chất nó là “pretty_girl.jpg.exe” hoặc “pretty_girl.jpg.vbs”.
THAY ĐỔI THIẾT ĐẶT GHI NHẬN VỀ SỰ CỐ HỆ THỐNG
Khi Windows (2000 hoặc XP) gặp sự cố, hệ điều hành sẽ tạo ra một file gỡ rối (dump)
và có thể
tự khởi động lại hệ thống. Những kẻ có gắng đột nhập vào hệ thống của bạn có thể tìm
thấy những thông tin vô cùng đáng giá như những password chẳng hạn trong file
“dump” này. Bên cạnh đó, hacker cũng có thể gây xung đột cho hệ thống của bạn khiến
máy tính phải khởi động lại, và chỉ chờ có vậy chúng sẽ cho chạy một Trojan khởi động
hoặc giành quyền kiểm soát tài khoản quản trị hệ thống.
2 ) Đối với doanh nghiệp hay công ty
Trong những câu chuyện trên báo chí thời gian gần đây, một công ty có thể cho rằng
không ai gây hại đến an toàn dữ liệu của họ hơn một gã thích chu du trên Web nào đó.
Các hacker (tay quậy) quả thật là mối đe dọa về bảo mật đối với công ty, nhưng nhìn
tổng thể đó chỉ là những nhân vật phụ mà thôi. Nếu công việc của bạn là bảo vệ cho hệ
thống của công ty luôn bất khả xâm phạm, dưới đây là năm bước cần tiến hành để có thể

bảo mật tối đa hệ thống của bạn.
Lập chính sách
14
Ưu tiên số một phải là thiết lập chính sách bảo mật cụ thể. Ngoài những nội dung khác,
chính sách này phải xác định mục tiêu bảo mật của công ty là gì. Thông thường, các
mục tiêu đó gồm ngăn chặn ăn cắp thiết bị, tiết lộ thông tin mật và bảo đảm hoạt động
liên tục. Nhu cầu bảo mật của một ngân hàng chẳng hạn rất khác so với nhu cầu bảo mật
của một công ty chuyên về công cụ truy tìm trên Web.
Bảo vệ máy tính của bạn
Đề phòng việc mất một bộ RAM hay con chip CPU đắt tiền là mối lo chính của các
doanh nghiệp có nhiều máy tính. Những máy tính đặt ở nơi nhiều kẻ ra vào đặc biệt dễ
bị chiếu cố vì sự giám sát khi có khi không, nhưng bạn có thể giảm bớt phần nào rủi ro
nếu dùng các khóa và nhãn ID.
Hầu hết máy tính xách tay đều có rãnh khóa ở panel sau dùng để khóa bằng cáp. Để cắt
được cáp của công ty Kensington Microsaver, kẻ cắp sẽ không thể không làm hỏng nặng
chính cái máy (và thế là máy chẳng còn giá trị gì trên thị trường nữa).
Kiểm soát truy cập máy chủ
Sau khi bảo đảm bọn ăn cắp không thể rớ tới máy tính của bạn, cần tập trung vào bảo vệ
dữ liệu chứa trong các máy tính đó.
Công cụ hữu ích để bảo vệ mạng là SecurID, một máy tính vừa đúng bằng chiếc thẻ tín
dụng có màn hình tinh thể lỏng. Cứ mỗi phút, một mã số khác nhau lại "phóng ra" (pop-
up) trên màn hình "thẻ" này. Muốn truy cập máy chủ, người dùng phải nhập tên người
dùng và mật khẩu chuẩn cũng như nhập đúng mã SecurID. SecurID; giá thay đổi;
Security Dynamics; www.securid.com.
Mã hóa dữ liệu quan trọng
Trong thực tế doanh nghiệp, việc mã hóa dữ liệu có thể bảo vệ công ty trước nguy cơ
thông tin bị tuồn ra ngoài một cách trái phép . Cũng như với e-mail và file, bạn có thể
bảo vệ thông tin mật trên một máy chủ Web bằng cách mã hóa. Nếu công ty bạn chạy
intranet và phần mềm Web server có thể mã hóa dữ liệu, bạn hãy đổi mọi URL thành
https: thay vì http: - việc này sẽ khởi hoạt chương trình mã hóa cài sẵn trong các trình

duyệt Web và bảo đảm rằng bất cứ dữ liệu nào gửi từ máy chủ sang trình duyệt và
ngược lại đều không thể đọc được đối với người ngoài.
Phát triển hệ thống sao lưu
Mọi hệ thống phức tạp chẳng sớm thì muộn rồi cũng hỏng; do đó bạn nên sao lưu dự
phòng hệ thống mạng cũng như dữ liệu. Một lĩnh vực người ta hay khinh thường trong
bảo vệ dữ liệu là nguồn điện của tòa nhà. Nếu mất điện trong vòng 10 giây, công ty bạn
sẽ mất bao nhiêu dữ liệu? Không chỉ mua một UPS cho mỗi máy chủ, bạn phải bảo đảm
mỗi người trong công ty đều có một cái. Hầu hết nhân viên đều rất lơ là trong việc sao
lưu thường xuyên các file trong ổ cứng của mình.
Cách tốt nhất với công ty lớn để phòng tránh sự cố hệ thống toàn công ty là xây dựng hệ
thống dự phòng tại một địa điểm khác. Địa điểm đó phải có máy tính đủ mạnh, dung
15
lượng đĩa lớn và được nối kết mạng để có thể thay thế mạng chính. Mạng dự phòng này
phải được trao đổi dữ liệu thường xuyên với file server sao cho các file trong mạng dự
phòng luôn được cập nhật kịp thời để khi cần có thể chuyển ngay qua mạng dự phòng.
Mua phần mềm diệt virus cho doanh nghiệp
Doanh nghiệp có thể mua bản quyền của 1 chương trình diệt virus cho small office hay
large office . Việc mua phần mềm tuy tốn chi phí , nhưng bảo mật thông tin của doanh
nghiệp 1 cách toàn diện chóng lại virus 1 cách hiệu quả . Làm giảm rủi ro cho doanh
nghiệp khi kinh doanh mạng .
Các chương trình và công cụ để bảo mật
Để bảo vệ hoàn hảo máy tính cần phải cài các chương trình diệt virus bản quyền nổi
tiếng . Do phần mềm diệt virus là điều cần thiết trong việc bảo vệ máy tính. Những phần
mềm diệt virus dưới đây được chọn dựa trên khả năng phát hiện virus, các tính năng,
cũng như khả năng bảo vệ của chúng.
1.BitDefender
BitDefender Antivirus 2010 cung cấp khả năng bảo mật và bảo vệ đáng tin cậy nhất
trong số những phần mềm diệt virus trong danh sách này. Đó cũng chính là lý do tại sao
chúng được xếp hàng đầu trên hầu hết các trang web.
BitDefender Antivirus 2010 cung cấp khả năng bảo mật chắc chắn, sử dụng đơn giản, sử

dụng các nguồn hiệu quả và giá cả cũng rất hợp với túi tiền của người dùng. Chương
trình này đã thêm một số tính năng phụ giúp nâng cấp khả năng hoạt động chung của
máy tính cũng như khả năng bảo vệ mà không làm ảnh hưởng tới máy tính.
2. Norton Antivirus 2010
Norton AntiVirus 2010 và Norton 360 phiên bản 3.0 của Symantec đã được liệt kê vào
danh sách giải pháp phần mềm có khả năng tương thích nhất với Windows 7. Norton
Internet Security 2010 và Norton AntiVirus 2010 đã được thiết kế đặc biệt nhằm hỗ trợ
cho Windows 7. Những người đang sử dụng Norton AntiVirus 2009 có thể cập nhật tự
động lên phiên bản Norton Antivirus 2010.
3. Kaspersky AntiVirus
16
Chương trình diệt virus này không miễn phí, nó tiêu tốn của bạn khoảng $60, nhưng vẫn
có phiên bản dùng thử 30 ngày sau khi download và cài đặt phần mềm.
Kaspersky AV là một phần mềm:
• Ngay cả khi cập nhật thành công, Kaspersky AntiVirus vẫn thiếu một số tính
năng quan trọng nếu so sánh với các phần mềm diệt virus khác.
• Phiên bản mới này đã loại đã không có tính năng tốt nhất của chúng - Safe Run
program, nơi bạn có thể sử dụng chương trình diệt virus ngay cả khi đang trong
chế độ Safe Mode.
• Mặt khác, chương trình này lại có thêm công cụ diệt virus tốt hơn, chạy với tốc
độ nhanh hơn so với phiên bản diệt virus miễn phí
• Một tính năng mới của chương trình cho phép người dùng có thể gửi đi kết quả
quét virus trên máy tính của mình tới các nhà phân tích để được bảo vệ tốt hơn.
Tuy nhiên, tính năng này sẽ tiêu tốn của bạn phụ phí $20 một năm.
Người dùng vẫn có thể sử dụng phiên bản thử nghiệm và xem xét có nên sử dụng
chương trình diệt virus này hay không. Tuy nhiên, bạn vẫn có thể kích hoạt chúng với
các key.
4. McAfee
McAfee Total Protection cung cấp đầy đủ bộ ứng dụng của sản phẩm dành cho
Windows 7. Đối với những người đang sử dụng phiên bản Beta của McAfree dành cho

Windows 7 sẽ nhận được bản nâng cấp lên MTP 3.11 với Security Center, Virus Scan
và Personal Firewall. McAfree có sự kết hợp của chương trình diệt virus, firewall và
công nghệ ngăn chặn xâm nhập tốt nhất.
5. AVG
17
AVG là một trong những phần mềm diệt virus được sử dụng rộng rãi nhất có khả năng
làm việc hoàn hảo trên hệ điều hành Windows 7. AVG cung cấp khả năng bảo vệ toàn
diện chống lại virus, sâu máy tính và trojan, spyware, adware cũng như identity-theft –
ăn cắp dữ liệu cá nhân.
Thứ nhất là Kaspersky Internet Security 2010, tiếp theo là AVG Internet Security
9.0 đứng thứ ba về khả năng phát hiện mã độc và tốc độc thực hiện quét nhanh hệ thống.
Tiếp đến lần lượt là Avast, BitDefender, McAfee, Panda, PC Tools, Trend Micro, và
Webroot. Các sản phẩm Eset, F-Secure và ZoneAlarm bị tụt hạng do khả năng chấp
nhận của người dùng và bảo vệ khỏi mã độc không được mạnh lắm. Theo PCWorld, tất
cả các phần mềm được kiểm thử đều có các thành phần chống virus, spyware và spam,
cộng với tường lửa.
Dưới đây là bảng xếp hạng các chương trình diệt virus 1 trang web nổi tiếng
www.virusbtn.com của Anh công bố vào tháng 10/2010
Kiến nghị :

18
Website tham khảo:
Tailieu.vn
www.virusbtn.com
19

×