Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Nước uống từ thảo dược ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.3 KB, 9 trang )






Nước uống từ
thảo dược




Vietsciences- Nguyễn Lân
Dũng

Trên thế giới ngoài nước trà
chế biến từ lá của cây Chè xanh
(tên khoa học là Camellia
sinensis, đôi khi được gọi là chè
Assam với tên khoa học của một
loài phụ là đôiCamellia sinensis
assamica). Cây chè có nguồn gốc
từ khu vực Đông Nam Á và những
nước có chè nổi tiếng là Trung
Quốc (bao gồm cả Đài Loan, Nhật
Bản, Việt Nam, Sri Lanka ).
Ngoài lá dùng để làm các loại nư
ớc
uống (chè tươi, trà nóng, trà đá )
thì hạt còn được dùng để ép dầu.
Nước ta hàng năm xuất khẩu trung
bình tới khoảng 2000 tấn chè khô.


Diện tích trồng chè là khoảng 125
000 ha và cho sản lượng khoảng
trên 1 triệu tấn mỗi năm. Ngo
ài cây
chè thông thường, một số vùng núi
phía Bắc còn có Chè tuyết (hay ch
è
San tuyết) lấy từ những cây chè cổ
thụ lâu năm mọc trên núi cao (nhất
là ở vùng Suối Giàng (Yên Bái).
Thời Pháp thuộc, vào thập niên
1930 chè được đem trồng một cách
quy mô trên cao nguyên vùng
B’Lao và Dji Ring và vùng này sau
chiếm địa vị là vựa chè của tỉnh
Lâm Đồng. Khi hái chè người ta
phân biệt loại 1 là Chè búp (chỉ
chọn toàn búp non của cây chè),
loại 2 là lá chè thứ hai, thứ ba. Còn
chè lấy từ lá thứ tư, thứ năm được
gọi là loại được dùng để chế biến
Chè mạn.


Chè
xanh
Chè Tuyết Suối Già
Bản chất chè là một thảo
dược. Các nghiên cứu ở nhiều nư
ớc

trong lá chè Assam có chứa 22.2%
polyphenol, 17.2% protein, 4.3%
caffeine, 27.0% cellulose thô, 0.5%
tinh bột, 3.5% đường khử, 6.5%
pectin, 2.0% chất chiết xuất bằng
ether và 5.6% tro (muối khoáng).
Trong 100 g chè khô còn có chứa
một nhiệt lượng khoảng 293 calo,
8.0 g nước, 24.5 g protein, 2.8 g
lipidt, 58.8 g hydratcarbon, 8.7 g
cellulose, 5.9 g tro, 327 mg Ca, 313
mg P, 24.3 mg Fe, 50 mg Na, 2700
UG đương lượng beta-carotene,
0.07 mg thiamine (B1), 0.8 mg
riboflavin (B2), 7.6 mg niacin (B3),
và 9 mg acid ascorbic (C) (theo
Duke và Atchley, 1984). Lá chè
còn có chứa acid malic và acid
oxalic cùng với kaempferol,
quercitrin, theophylline,
theobromine, xanthine,
hypoxanthine, adenine, gôm
(gums), dextrins, và inositol. Thành
phần dầu bay hơi chủ yếu (0.007-
0.014% trọng lượng tươi của lá)
chủ yếu l
à hexenal, hexenol, và các
aldehyde bậc thấp, butyraldehyde,
isobuteraldehyde, isovaleraldehyde,
n-hexyl, benzyl và các phenylethyl

alcohol, phenol, cresol, hexoic acid,
n-octyl alcohol, geraniol, linalool,
acetophenone, benzyl alcohol,
citral. Một số thành phần trong lá
chè có tác dụng chống oxy hóa nh
ư
catechin, epigallocatechin,
epigallocatechin gallate (Leung,
1980).
Tác dụng dược liệu của chè
được xác định từ lâu trong các y
văn Trung Hoa. Chủ yếu là các tác
dụng chống độc (antitoxic), lợi tiểu
(diuretic), long đờm (expectorant),
kích thích (stimulant) và kích hoạt
dạ dày (stomachic) (theo Leung,
1980). Chè còn có tác dụng co
(astringent), kích thích (stimulant)
và tác động như chất làm dịu thần
kinh (giảm đau đầu). Nó còn có tác
dụng làm tiêu tan r
ối loạn thần kinh
(digestive disturbances). Lá chè có
tạc dụng dieetjn trực khuẩn lỵ và
amib lỵ (amebic dysentery), chống
viêm dạ dày-ruột (gastroenteritis)
và viêm gan (hepatitis). Ngoài ra
còn có hiệu ứng chống xơ v
ữa động
mạch (antiatherosclerotic) và có

hoạt tính của vitamin P (theo
Leung, 1980) Duke và Wain
(1981) chứng minh chè được dân
gian dùng để giảm đau (analgesic),
giải độc (antidotal), chất làm se
(astringent), trợ tim (cardiotonic),
thông trung tiện (carminative),
chống viêm (demulcent), trợ giúp
tiêu hóa (digestive), lợi tiểu
(diuretic), long đờm (expectorant),
tăng tiết sữa (lactagogue), gây mê
(narcotic), bổ thần kinh (nervine),
thanh nhiệt (refrigerant), kích thích
(stimulant), kích hoạt dạ dày
(stomachic) .
Chè rõ ràng là một loại đồ
uống tốt, vừa có tác dụng giải khát,
vừa có tác dụng bồi dưỡng sức
khỏe, tăng sức đề kháng với nhiều
loại bệnh tật (kể cả bệnh ung thư).
Gần đây trên thị trường xuất
hiên Trà Dr. Thanh (loại có đường
và loại không đường) được giới
thiệu là chế tạo từ 9 loại thảo mộc
cung đình và có tác d
ụng thanh lọc
cơ thể. Tôi uống thử và thấy hương
vị rất dễ chịu. Ngay cả loại không
đường vẫn có vị ngọt của thảo mộc.




©
và -
Nguyễn Lân Dũng




×