Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Về chiếc lá cuối cùng và Hai cây phong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.61 KB, 6 trang )

Trong sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập một có bài 8 Chiếc lá cuối cùng và
bài 9 là đoạn trích Hai cây phong từ truyện dài Người thầy đầu tiên.
Sách giáo khoa và sách giáo viên đã hướng dẫn khá chi tiết về cách hiểu và
khai thác 2 tác phẩm này. Chúng tôi muốn trao đổi để làm sáng rõ hơn hoặc
nhấn mạnh một đôi điều để ấn tượng về tác phẩm trọn vẹn hơn đối với học
sinh.


1. Về bài 8 CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG
Chiếc lá cuối cùng là truyện ngắn của O’ Hen ry. Trước đây được học
trọn vẹn, nay chỉ học trích một đoạn. Phần lược bỏ về khối lượng gấp hai lần
phần được trích. Chính vì thế mà nhiều chi tiết vô cùng quan trọng để giúp
nhìn nhận nhân vật Giônxi, Bơ men, cũng như đánh giá toàn bộ tác phẩm đã
bị lược bỏ.
Nhất thiết giáo viên cần đọc lại toàn bộ truyện ngắn này ( trong sách giáo
khoa Văn học 8, tập 1, sách chỉnh lí, nhà xuất bản Giáo Dục năm 1995). Và
khi đọc, cần ghi lại những chi tiết quan trọng đó để liên hệ khi phân tích
đoạn trích còn lại. Chẳng hạn như, người bác sĩ đã mời Xiu ra hành lang và
nói riêng với cô rằng : “Bệnh tình của cô ấy có thể nói là mười phần chỉ còn
hi vọng được một thôi…Và muốn có được một phần đó thì cô ấy phải có ý
muốn sống kia”. Nhưng để thuyết phục bạn, Xiu đã nói ngược lại rằng :
“ông bác sĩ đã nói với chị là em sẽ chóng bình phục thôi, đúng ra là ông ta
nói thế nào nhỉ - khả năng khỏi là mười phần chắc chín; ông ta nói thế!”. Và
cuối cùng, sau khi Xiu nhìn thấy chiếc lá cuối cùng không rụng xuống, cô đã
thấy rằng “ muốn chết là một tội” và lại bắt đầu quan tâm đến chuyện vẽ
được vịnh Na-plơ. Bác sĩ đã kết luận “ Được năm phần mười rồi” và hôm
sau thì : “ Cô ấy khỏi nguy hiểm rồi, chị đã thắng”. Như vậy việc Xiu chiến
thắng cái chết và hồi sinh là một sự việc kì diệu trong đó “ chiếc lá cuối
cùng” do cụ Bơ men vẽ có một vai trò hết sức quan trọng.
Về cụ Bơ men cũng có chi tiết đáng quan tâm. Đó là cụ “ là người thất bại
trong nghệ thuật. Cụ múa cây bút vẽ đã bốn mươi năm mà vẫn không với tới


được gấu áo vị nữ thần của mình. Cụ luôn luôn có ý định vẽ một bức tranh
kiệt tác, nhưng chưa bao giờ bắt đầu cả” và “ Trên giá vẽ ở góc buồng là
một tấm vải trống trơn, từ hai mươi lăm năm nay vẫn cứ chờ đợi mãi nét vẽ
đầu tiên của bức tranh kiệt tác”. Chi tiết này cho thấy sự ấp ủ và thai nghén
của người nghệ sỹ lâu dài và bền bỉ như thế nào. Cụ Bơ men, hai cô họa sĩ
trẻ và các nhà văn trẻ đã sáng tác để lát đường đẫn tới lâu đài nghệ thuật. Và
không phải lúc nào họ cũng có thể cho ra đời kiệt tác của mình. Những điều
đó cho người đọc cảm thông với lao động nghệ thuật và kính trọng người
làm nghệ thuật.
Cần nhấn mạnh sự thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ nhau giữa những
người nghệ sĩ. Xiu chăm sóc, lo lắng cho bạn, cô đã khóc ướt mủn cả chiếc
khăn giấy Nhật bản, cô đã an ủi, thậm chí nói dối bạn về tình trạng bệnh tình
để động viên bạn chống chọi với bệnh tật. Cụ Bơ men thì vô cùng lo lắng
đến nỗi cáu bẳn vì ý nghĩ kì quặc của Giôn xi. Cụ đã lẳng lặng vẽ chiếc lá
cuối cùng, đem sinh mạng của mình đổi lấy chiếc lá cũng có nghĩa là đổi lấy
mạng sống cho cô hoạ sĩ trẻ mắc bệnh hiểm nghèo.
Có một vấn đề tinh tế mà nhà văn không đề cập trực tiếp. Đó là sau
những lần yêu cầu kéo mành, Giôn xi nhìn thấy chiếc lá thường xuân dũng
cảm vẫn bám vào cành. Giôn xi nằm nhìn lá hồi lâu. Rồi sau đó cô thay đổi
hẳn ý nghĩ muốn chết. Cô nói với Xiu : “ Có một cái gì đó làm cho chiếc lá
cuối cùng vẫn còn đấy để em thấy rằng mình đã tệ như thế nào”. Điều gì đã
xảy ra trong tâm trí cô hoạ sĩ trẻ? Phải chăng, cô đã chuẩn bị đi theo chiếc lá
mong manh, nhưng nó không rụng xuống, bởi vậy lời nguyền của cô đã
được hoá giải? Phải chăng, sự dũng cảm của chiếc lá đơn độc trước những
trận mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng đã làm cho Giôn xi thấy mình
quá yếu đuối? Cô ngượng với chiếc lá và suy nghĩ lại. Phải chăng nhìn chiếc
lá già nhưng vẫn bền bỉ, níu kéo sự sống, không chịu lìa cành đã nảy sinh
trong cô sự so sánh? Cô trẻ trung, lại có bạn gái là Xiu, lại có cụ Bơ men hết
lòng yêu quý, chăm sóc, tại sao có thể dễ dàng buông xuôi, lìa bỏ cuộc
sống ?

Dù thế nào thì chiếc lá cuối cùng vẫn là vật có ý nghĩa làm thay đổi số
phận Giôn xi. Từ chỗ chỉ chăm chăm chờ thần chết đem đi, đến chỗ thấy
mình đã tệ như thế nào, rồi nhận thấy muốn chết là một tội. Rồi muốn ăn
cháo và uống chút sữa, muốn soi gương, hy vọng sẽ vẽ được vịnh Na-plơ
một ngày nào đó Từ chỗ mười phần chỉ được một, đến chỗ“ Được năm
phần mười rồi” và hôm sau thì : “ Cô ấy khỏi nguy hiểm rồi, chị đã thắng” là
cả một sự đảo ngược ngoạn mục hay có thể nói là Giôn xi đã từ cõi chết trở
về.
Đến đây cần lưu ý về vai trò của chiếc lá cũng như vai trò nghệ thuật
trong đời sống.
Khoa học gần như đã chịu bó tay trước bệnh tình của Giôn xi, nhiều
người đã chết vì bệnh viêm phổi. Vị bác sĩ điều trị nói rằng mười phần chỉ
được một và cái đó còn phụ thuộc vào cái ý muốn sống của người bệnh, nếu
không mọi thứ thuốc men đều trở thành vô dụng.
Tình cảm bạn bè cũng không giúp gì cho Giôn xi. Xiu đã khóc, đã van
nài nhưng Giôn xi vẫn không từ bỏ ý định sẽ chết cùng với chiếc lá cuối
cùng. Bởi vậy mà cô nói : “Em muốn buông trôi hết thẩy và dong buồm
xuôi dòng như một trong những chiếc lá mệt mỏi và tội nghiệp kia”, và lạnh
lùng, tàn nhẫn ra lệnh kéo mành lên.
Nghĩa là tình trạng của Giôn xi đã gần như tuyệt vọng, không gì có thể
làm cho cô hoạ sĩ trẻ từ bỏ ý nghĩ sẽ buông xuôi, sẽ chết như chiếc lá.
Nhưng chính chiếc lá của cụ Bơ men vẽ đã làm được điều kì diệu.
Nghiã là khi mà không gì có thể cứu giúp con người thì nghệ thuật đã làm
được điều mà khoa học y học và tình cảm của con người đều bó tay, bất lực.
Chiếc lá đã làm cho cô hoạ sĩ từ tuyệt vọng trở về với hi vọng, từ cõi chết trở
về với sự sống. Do đó ý nghĩa rất to lớn của tác phẩm còn ở chỗ ca ngợi sức
mạnh kì diệu của nghệ thuật. Chúng ta bỗng nhớ đến tác phẩm nổi tiếng
Luyxer nơ của Lep Tôn xtôi. Lép Tôn xtôi ca ngợi sức mạnh của âm nhạc,
sức mạnh kì diệu đã buộc tất cả mọi người “đứng im lặng và bất động trong
suốt nửa tiếng đồng hồ”. Còn ở đây O’Hen ry ca ngơi sức mạnh của hội

hoạ. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà văn hoá lớn đã khẳng định chỉ có
nghệ thuật mới có thể cứu rỗi con người.
Bởi vậy, nếu khai thác truyện ngắn này mà bỏ qua vấn đề trên thì thật
là một điều đáng tiếc.
Một vấn đề khác cũng khá quan trọng với truyện ngắn này là vấn đề
lao động nghệ thuật và kiệt tác. Không phải là một chủ đề lớn, nhưng tác giả
đã đề cập đến lao động nghệ thuật âm thầm và khát vọng của người nghệ
sĩ. Các nghệ sĩ trẻ vẽ những tranh minh hoạ, cũng như các nhà văn trẻ viết
truyện chỉ là để lát đường đến nghệ thuật. Mà chắc gì đã đến được. Cụ Bơ
men bốn chục năm múa cây bút vẽ mà không với tới được gấu áo vị nữ thần
của mình. Cụ Bơ men và khao khát vẽ một kiệt tác. Ròng rã hai mươi lăm
năm khung vải vẫn chờ đợi nét vẽ của cụ. Nhưng chính trong lúc bất ngờ
nhất, không chờ đợi nhất thì cụ đã hoàn thành kiệt tác của mình. Kiệt tác
được vẽ bằng tình thương, lòng nhân hậu được vẽ vì mục đích cứu sống con
người, không một tính toán thiệt hơn. Và để có nó phải đánh đổi bằng cả
sinh mạng của người hoạ sĩ già trong đêm mưa giá rét. Chúng ta có thể hiểu
sự khe khắt của lao động nghệ thuật và kính trọng những người hiến thân
cho nó.

2. Về bài 9 HAI CÂY PHONG
Đoạn trích này là một đoạn rất hay, rất mẫu mực về văn miêu tả.
Nhưng để làm rõ cái hay đó, và nhất là để cho học sinh cảm nhận được cái
hay đó thì không dễ dàng. Tóm tắt câu chuyện trang 99 của sách giáo khoa
cho học sinh hình dung được hai cây phong liên quan đến nhân vật chính là
An-tư-nai “ Khi An-tư-nai còn đang học ở trường làng, có hôm Đuy-sen
mang về trường hai cây phong non và bảo em: “ hai cây phong này thầy
mang về cho em đây. Chúng ta sẽ cùng trồng. Và trong khi chúng lớn lên,
ngày một thêm sức sống, em sẽ trưởng thành, em sẽ là một người tốt Em
bây giờ trẻ măng như một thân cây non, như đôi cây phong nhỏ này ”.
Nhưng nhân vật tôi kể chuyện Hai cây phong lại không phải là An-tư-nai.

Đây là một học sinh thế hệ sau An-tư -nai rất nhiều. Khi anh ta là cậu bé đi
học thì hai cây phong non đã trở thành cây khổng lồ, anh ta cũng không biết
ai đã trồng cây phong, vì sao ngôi trường có hai cây phong ấy lại được làng
gọi là “ Trường Đuy-sen”. Bởi vậy hai cây phong không chỉ là cây phong,
mà nó còn là ngọn hải đăng đặt trên núi, là loại cây có tiếng nói riêng, tâm
hồn riêng, là bóng mát che rợp tuổi thơ, là nơi cho các em phóng tầm mắt
nhìn vào miền đất quê hương “bí ẩn, đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa
thẳm”.
Cái hay của đoạn trích “Hai cây phong” chính là chất thơ và sự miêu
tả tinh tế, thấm đẫm cảm xúc của nhân vật xưng tôi, một người học trò cách
xa thế hệ của An-tư-nai bằng quãng thời gian cây phong non trở thành cây
khổng lồ.
Trong mạch kể chuyện, người kể khi thì xưng tôi, khi xưng chúng tôi,
rồi lại xưng tôi. Không thể nói là đoạn xưng tôi quan trọng hơn đoạn xưng
chúng tôi, bởi vì mỗi mạch kể làm nổi bật một nội dung quan trọng.
Đoạn văn người kể chuyện xưng tôi chủ yếu miêu tả vẻ đẹp của hai
cây phong. Hình ảnh hai cây phong được giới thiệu khái quát về vị trí: mọc
ở giữa một ngọn đồi phí trên làng. Đi về phía nào cũng nhìn thấy hai cây
phong trước tiên. Hai cây phong được so sánh “như những ngọn hải đăng
đặt trên núi” có ý nghĩa ca ngợi, đề cao vị trí và vai trò của chúng. Đó là tín
hiệu của làng, biểu tượng của làng, định hướng của làng cho những người
trở về cập bến quê hương.
Người kể đã dùng biện pháp nhân hoá để nói về sự khác biệt độc đáo
của hai cây phong. Một làng miền núi thảo nguyên không thiếu các loại cây.
Nhưng hai cây phong “có tiếng nói riêng”, “có tâm hồn riêng”, có những bài
hát riêng “chan chứa những lời ca êm dịu”. Bất kì thời điểm nào cũng có thể
thấy được vẻ đẹp của hai cây phong. Về hình dáng : “nghiêng ngả thân cây,
lay động lá cành”, về âm thanh “rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau”.
Những âm thanh đó khơi gợi những tưởng tượng vô cùng phong phú mà
người kể đã khái quát “say sưa ngây ngất” : Như một làn sóng thuỷ triều

dâng lên vỗ vào bãi cát; như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm; cất
tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào; reo vù vù như một ngọn
lửa bốc cháy rừng rực.
Hai cây phong đã được quan sát và miêu tả bằng sự yêu thương, trìu
mến và gắn bó của người kể chuyện “đã bao nhiêu lần” từ chốn xa xôi về
làng để gặp gỡ cây với mong mỏi “ chóng về tới làng, chóng lên đồi mà đến
với hai cây phong!”. Hai cây phong ấy đã toả bóng che mát tuổi thơ của
người kể chuyện, đã cất giữ bao nhiêu kỉ niệm trong trẻo, kì diệu của tuổi trẻ
“ như mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh”.
Ở đoạn kể chuyện người kể xưng chúng tôi có một sự thay đổi. Đây
là kỉ niệm của những cậu bé khi bắt đầu kì nghỉ hè của năm học cuối cùng.
Lần đầu tiên lũ trẻ trèo lên cây để phá tổ chim ( một hành động ngốc nghếch
và dại dột). Nhưng khi thi nhau trèo lên cao, trên những cành của hai cây
phong, một “ thế giới đẹp đẽ vô ngần” đã mở ra “từ độ cao ngang tầm cánh
chim bay”. Chúng nhìn thấy “toà nhà rộng lớn nhất thế gian” giờ đây chỉ
như “một căn nhà xép bình thường”. Chúng nhìn thấy bao nhiêu vùng đất
mà trước đây chưa từng biết đến; chúng nhìn thấy những con sông chưa từng
nghe nói “những dòng sông lấp lánh tận chân trời như những sợi chỉ bạc
mong manh”. Lũ trẻ ( trong đó có người kể chuyện) “sửng sốt”, rồi “đều nín
thở ngồi lặng đi” và quên mất mục đích trèo lên cây phong. Cảnh tượng gợi
ra vẻ đẹp huyền bí và cho chúng thấy đất nước rộng lớn vô cùng, với những
miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ.
Hai cây phong gắn bó suốt những năm thơ ấu của lũ trẻ. Và lần đầu
tiên cho chúng cái nhìn xa rộng về quê hương, đất nước, cho chúng nhìn
thấy những vẻ đẹp mới, khơi gợi khát vọng khám phá những miền đất bí ẩn.
Đây chính là ý nghĩa biểu tượng gián tiếp mà hai cây phong đem đến cho lũ
trẻ.
Về người thầy giáo Đuy-sen, người vô danh đã thắp sáng niềm tin và
khát vọng cho trẻ em làng Ku-ku-rêu, chỉ đến cuối đoạn mới được nhắc đến
rất thấp thoáng. Thông qua vấn đề mà người kể chuyện chưa bao giờ nghĩ

đến : Người trồng cây phong là ai, và có những ước mơ hi vọng gì khi trồng
cây phong đó? Và tại sao “trường Đuy-sen” lại là tên gọi ngọn đồi có hai cây
phong?
Câu hỏi không có lời đáp. Nhưng các thế hệ trẻ em đã lớn lên trong
“bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền” của hai cây phong đã hạnh
phúc biết bao. Những đứa trẻ lần đầu tiên sửng sốt, nín thở ngồi lặng đi
trước “một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng” đã
sung sướng và kiêu hãnh biết bao. Đó là câu trả lời cho những ước mơ, hi
vọng của người trồng cây phong. Đó cũng chính là sự ca ngợi tinh tế người
thầy giáo Đuy-sen, “người thầy đầu tiên” đã xây dựng trường học, khai tâm
cho các em và chắp cánh cho những ước mơ, hi vọng.
Qua hình ảnh đẹp đẽ, thân thiết của hai cây phong trồng ở ngôi trường
mang tên Đuy-sen, người đọc thấy được niềm biết ơn đối với thầy giáo, mái
trường, nơi khai tâm và ươm mầm, nuôi dưỡng tình yêu lớn của mỗi con
người.

×