Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tìm hiểu về ipv6 và hướng phát triển ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.27 KB, 20 trang )

BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA ĐIỆN TỬ VIỄN THÔNG



BÀI TẬP NHÓM
Đề tài :Tìm Hiểu Về Ipv6 Và Hướng Phát Triển Ở Việt Nam


KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:1
GVHD: Nguyễn Lê Mai Duyên
SVTH : Võ Khắc Thắng
Nguyễn Văn Thương
Nguyễn Nghĩa Hiệp
LỚP : K15EVT
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
Mục lục

Lời nói đầu
Địa chi IPv6 được nhóm chuyên trách về kỹ thuật của IETF (Internet Engineering
Task Force) của hiệp hôi Internet đề xuất thựuc hiện trênc cơ sở kế thừa cấu trúc và tổ
chức của IPv4.
IPv4 có 32 bits địa chỉ với khả năng lý thuyết có thể cung cấp 1 không gian địa chỉ
32
2
=4.294.967.296 địa chỉ. Còn IPv6 với 128 bits địa chỉ, dài gấp 4 lần IPv4, có khả
năng cung cấp 1 không gian địa chỉ gấp
96
2
lần. Số địa chỉ này nếu rải đều trên bề mặt


quả đất thì mỗi mét vuông có khoảng 656.570 tỷ tỷ địa chỉ. Đây là một không gian địa
chỉ cực lớn với mục đích ko chỉ cho Internet mà còn cho tất cả các mạng máy tính, hệ
thống viễn thông, hệ thồng điều khiển và thậm chí cho từng vật dụng gia đình.
Với tốc độ phát triển hiện nay, ko gian địa chỉ IPv4 đã cạn kiệt. Vấn đề chuyển đổi
sang IPv6 là tất yếu trong tương lại. Việc nắm bắt trước các kỹ thuật truyển đồi và thực
hiện các dịch vụ trên nền IPv6 là vấn đề hết sức cần thiết. Trong quá trình làm bài tập
nhóm,chúng em đã tiến hành nghiên cứu về các vấn đề khó khăn của IP v4 hiện nay và lý
thuyết tổng quan về IPv6.
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:2
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
CÔNG NGHỆ IPv6
1.Tổng quan IPv6
1.1 Những giới hạn IPv4
IPv4 hỗ trợ trường địa chỉ 32 bit, IPv4 ngày nay hầu như không còn đáp ứng được
nhu cầu sử dụng của mạng Internet. Hai vấn đề lớn mà IPv4 đang phải đối mặt là việc
thiếu hụt các địa chỉ, đặc biệt là các không gian địa chỉ tầm trung (lớp B) và việc phát
triển về kích thước rất nguy hiểm của các bảng định tuyến trong Internet.
Thêm vào đó, nhu cầu tự động cấu hình (Auto-config) ngày càng trở nên cần thiết.
Địa chỉ IPv4 trong thời kỳ đầu được phân loại dựa vào dung lượng của địa chỉ đó (số
lượng địa chỉ IPv4). Địa chỉ IPv4 được chia thành 5 lớp A, B, C, D. 3 lớp đầu tiên được
sử dụng phổ biến nhất. Các lớp địa chỉ này khác nhau ở số lượng các bit dùng để định
nghĩa Network ID.
Ví dụ: Địa chỉ lớp B có 16 bit đầu dành để định nghĩa Network ID và 16 bit cuối
cùng dành cho Host ID. Trong khi địa chỉ lớp C có 21 bit dành để định nghĩa Network
ID và 8 bit còn lại dành cho Host ID… Do đó, dung lượng của các lớp địa chỉ này khác
nhau.
1.2 Sự ra đời của IPv6
Năm 1973, TCP/IP được giới thiệu và ứng dụng vào mạng ARPANET. Vào thời điểm
đó, mạng ARPANET chỉ có khoảng 250 Site kết nối với nhau, với khoảng 750 máy tính.
Internet đã và đang phát triển với tốc độ khủng khiếp, đến nay đã có hơn 60 triệu người

dùng trên toàn thế giới. Theo tính toán của giới chuyên môn, mạng Internet hiện nay
đang kết nối hàng trăm ngàn Site với nhau, với hàng trăm triệu máy tính. Trong tương lai
không xa, những con số này không chỉ dừng lại ở đó. Sự phát triển nhanh chóng này đòi
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:3
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
hỏi phải kèm theo sự mở rộng, nâng cấp không ngừng của cơ sở hạ tầng mạng và công
nghệ sử dụng. Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, ứng dụng của Internet phát
triển nhằm cung cấp dịch vụ cho người dùng trên các thiết bị mới ra đời: Notebook,
Cellualar modem, Tablet, Smart-Phone, Smart TV… Để có thể đưa những khái niệm mới
dựa trên cơ sở TCP/IP này thành hiện thực, TCP/IP phải mở rộng. Nhưng một thực tế mà
không chỉ giới chuyên môn, mà ngay cả các ISP cũng nhận thức được đó là tài nguyên
mạng ngày càng hạn hẹp. Việc phát triển về thiết bị, cơ sở hạ tầng, nhân lực… không
phải là một khó khăn lớn. Vấn đề ở đây là địa chỉ IP, không gian địa chỉ IP đã cạn kiệt,
địa chỉ IP (IPv4) không thể đáp ứng nhu cầu mở rộng mạng đó. Bước tiến quan trọng
mang tính chiến lược đối với kế hoạch mở rộng này là việc nghiên cứucho ra đời một thế
hệ sau của giao thức IP, đó chính là IP version 6.
IPv6 ra đời không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn IPv4 (công nghệ mà hạ tầng mạng
chúng ta đang dùng ngày nay). Vì là một phiên bản hoàn toàn mới của công nghệ IP, việc
nghiên cứu, ứng dụng vào thực tiễn luôn là một thách thức rất lớn. Một trong những
thách thức đó liên quan đến khả năng tương thích giữa IPv6 và IPv4, liên quan đến việc
chuyển đổi từ IPv4 lên IPv6, làm thế nào mà ngƣời dùng có thể khai thác những thế
mạnh của IPv6 nhưng không nhất thiết phải nâng cấp đồng loạt toàn bộ mạng (LAN,
WAN, Internet…) lên IPv6.
1.3 Kiến trúc IPv6
Khi phát triển phiên bản địa chỉ mới, IPv6 hoàn toàn dựa trên nền tảng IPv4. Nghĩa là
hầu hết những chức năng của IPv4 đều được tích hợp vào IPv6. Tuy nhiên, IPv6 đã lượt
bỏ một số chức năng cũ và thêm vào những chức năng mới tốt hơn. Ngoài ra IPv6 còn có
nhiều đặc điểm hoàn toàn mới.
Một so sánh thú vị là nếu nói IPv4 là một trái banh golf thì IPv6 là một mặt trời.
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:4

BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
IPv6 sử dụng 128 bit địa chỉ, tăng gấp 4 lần số bit so với IPv4 (32bit). Nghĩa là trong
khi IPv4 chỉ có 232 ~ 4,3 tỷ địa chỉ, thì IPv6 có tới 2128~ 3,4 * 1038 địa chỉ IP. Gấp 296
lần so với địa chỉ IPv4. Với số địa chỉ của IPv6 nếu rãi đều trên bề mặt trái đất (diện tích
bề mặt trái đất là 511263 tỷ mét vuông) thì mỗi mét vuông có khoảng 665.570 tỷ tỷ địa
chỉ.
Địa chỉ IPv6 được biểu diễn bởi ký tự Hexa với tổng cộng 8 Octet. Mỗi Octet chứa 4
ký tự Hexa tương ứng với 16 bit nhị phân. Dấu hai chấm ngăn cách giữa các octet. Giao
thức IPv4 hiện tại được duy trì bởi kỹ thuật NAT và cấp phát địa chỉ tạm thời. Tuy nhiên
vì vậy mà việc thao tác dữ liệu trên payload của các thiết bị trung gian là một bất lợi các
lợi ích về truyền thông ngang hàng (peer-peer), bảo mật đầu cuối và chất lượng dịch vụ
(QoS). Với số lượng cực kỳ lớn địa chỉ IPv6 thì sẽ không cần đến kỹ thuật NAT hay cấp
phát địa chỉ tạm thời nữa. Vì lúc đó, mỗi thiết bị (Máy tính, điện thoại, tivi, robot, thiết
bị dân dụng…) đều sẽ có một địa chỉ IP toàn cầu.
Đây là một không gian địa chỉ cực lớn với mục đích không chỉ cho Internet mà còn
cho tất cả các mạng máy tính, hệ thống viễn thông, hệ thống điều khiển và thậm chí cho
từng vật dụng trong gia đình. Trong tương lai, mỗi chiếc điều hòa, tủ lạnh, máy giặt hay
nồi cơm điện… của mọi gia định trên thế giới cũng sẽ mang một địa chỉ IPv6 để chủ
nhân của chúng có thể kết nối và ra lệnh từ xa. Nhu cầu hiện tại chỉ cần 15% không gian
địa chỉ IPv6, còn 85% dự phòng cho tương lai.
1.4 So sánh Header của IPv4 và IP6
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:5
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
Header của IPv6 có 40 octet (hay độ lớn 40 byte) trái ngược với 20 octet trong IPv4.
Tuy nhiên IPv6 có một số lượng các trường ít hơn, nên giảm được thời gian xử lý
Header, tăng độ linh hoạt. Trường địa chỉ lớn hơn 4 lần so với IPv4. Không có Header
checksum: Trường checksum của IPv4 được bỏ đi vì các liên kết ngày nay nhanh hơn và
có độ tin cậy cao hơn vì vậy chỉ cần các Host tính checksum còn Router thì khỏi cần.
Ngoài ra Header checksum là 1 tham số sử dụng để kiểm tra lỗi trong thông tin header,
được tính toán ra dựa trên những con số của header. Tuy nhiên, có một vấn đề nảy sinh là

header chứa trường TTL (Time to Live), giá trị trường này thay đổi mỗi khi gói tin được
truyền qua 1 router. Do vậy, header checksum cần phải được tính toán lại mỗi khi gói tin
đi qua 1 router. Nếu giải phóng router khỏi công việc này, chúng ta có thể giảm được trễ.
Không có sự phân đoạn theo từng hop. Trong IPv4, khi các packet quá lớn thì Router có
thể phân đoạn nó. Tuy nhiên, việc này sẽ làm tăng thêm Overhead cho packet. Trong
IPv6 chỉ có Host nguồn mới có thể phân đoạn một packet theo các giá trị thích hợp dựa
vào một MTU path mà nó tìm được. Do đó, để hỗ trợ Host thì IPv6 chứa một hàm giúp
tìm ra MTU từ nguồn đến đích.
Các trường có trong IPv6 Header :
+ Version : Trường chứa 4 bit 0110 ứng với số 6 chỉ phiên bản của IP.
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:6
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
+ Traffic Class : Trường 8 bit tương ứng với trường Type of Service (ToS)
trongIPv4. Trường này đƣợc sử dụng để biểu diễn mức ưu tiên của gói tin, ví dụ có nên
được truyền với tốc độ nhanh hay thông thường, cho phép thiết bị có thể xử lý gói một
cách tương ứng.
+ Flow Label : Trường hoàn toàn mới trong IPv6, có 20 bit chiều dài. Trường này
biểu diễn luồng cho gói tin và đƣợc sử dụng trong các kỹ thuật chuyển mạch đa lớp
(multilayer switching), nhờ đó các gói tin đƣợc chuyển mạch nhanh hơn trƣớc. Bằng
cách sử dụng trƣờng này, nơi gửi gói tin hoặc thiết bị hiện thời có thể xác định một chuỗi
các gói tin, ví dụ VoIP, thành 1 dòng, và yêu cầu dịch vụ cụ thể cho dòng đó. Ngay cả
trong IPv4, một số các thiết bị giao tiếp cũng đƣợc trang bị khả năng nhận dạng dòng
lƣu lƣợng và gắn mức ưu tiên nhất định cho mỗi dòng. Tuy nhiên, những thiết bị này
không những kiểm tra thông tin tầng IP ví dụ địa chỉ nơi gửi và nơi nhận, mà còn phải
kiểm tra cả số port là thông tin thuộc về tầng cao hơn. Trƣờng Flow Label trong IPv6 cố
gắng đặt tất cả những thông tin cần thiết vào cùng nhau và cung cấp chúng tại tầng IP.
+ Payload Length : Trường 16 bit. T uơng tự trường Toal Length trong IPv4, xác
định tổng kích thước của gói tin IPv6 (không chứa header).
+ Next Header : Trường 8 bit. Trƣờng này sẽ xác định xem extension header có tồn
tại hay không, nếu không được sử dụng, header cơ bản chứa mọi thông tin tầng IP. Nó sẽ

được theo sau bởi header của tầng cao hơn, tức là header của TCP hay UDP, và trường
Next Header chỉ ra loại header nào sẽ theo sau.
+ Hop Limit : Trường 8 bit. Trường này tương tự trƣờng Time to live của IPv4. Nó
có tác dụng chỉ ra số hop tối đa mà gói tin IP được đi qua. Qua mỗi hop hay router, giá trị
của trường sẽ giảm đi 1.
+ Source Address : Trường này gồm 16 octet (hay 128 bit), định danh địa chỉ nguồn
của gói tin.
+ Destination Address : Trường này gồm 16 octet (hay 128 bit), định danh chỉ đích
của gói tin.
1.5 Một số tính năng mới nổi trội hơn so với IPv4
+ Đơn giản hóa việc đặt địa chỉ Host: IPv6 sử dụng 64 bit sau cho địa chỉ Host. Một
kỹ thuật gọi là EUI-64 làm đơn giản việc đặt địa chỉ host rất nhiều so với IPv4. Kỹ thuật
này tận dụng 48 bit địa chỉ MAC để làm địa chi host.Và chèn thêm chuỗi “FFFE” vào
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:7
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
giữa mỗi 16 bit của địa chỉ MAC để hoàn chỉnh 64 bit phần địa chỉ host. Bằng cách này,
mọi Host sẽ có một Host ID duy nhất trong mạng
+ Tự động cấu hình địa chỉ: Để đơn giản cho việc cấu hình các trạm, IPv6 hỗ trợ cả
việc tự cấu hình địa chỉ Stateful như khả năng cấu hình DHCP server hoặc tự cấu hình
Stateless (phi trạng thái).Với khả năng cấu hình phi trạng thái, các máy trạm trong mạng
tự động liên kết với Router và nhận về địa chỉ prefix của phần mạng. Thậm chí nếu
không có Router, các máy trạm trên cùng một liên kết có thể tự cấu hình và giao tiếp với
nhau mà không cần bất kỳ một thiết lập thủ công nào khác.
+ Hiệu suất cao hơn: Với IPv4 có sử dụng private address để tránh hết địa chỉ. Do
đó, xuất hiện kỹ thuật NAT để chuyển đổi địa chỉ, dẫn đến tăng Overhead cho gói tin.
Trong IPv6 do không thiếu địa chỉ nên không cần đến private address, do đó NAT được
loại bỏ  Giảm được thời gian xử lý Header, giảm Overhead vì chuyển dịch địa chỉ.
Giảm được thời gian xử lý định tuyến: nhiều khối địa chỉ IPv4 được phân phát cho các
user nhưng lại không tóm tắt đƣợc, nên phải cần các entry trong bảng định tuyến làm
tăng kích thước của bảng định tuyến và thêm Overhead cho quá trình định tuyến. Ngược

lại, các địa chỉ IPv6 được cấp phát qua các ISP theo một kiểu phân cấp địa chỉ giúp giảm
đƣợc Overhead.
Trong IPv4 sử dụng nhiều Broadcast nhƣ ARP Request, trong khi IPv6 sử dụng
Neighbor Discovery Protocol để thực hiện chức năng tƣơng tự trong quá trình tự cấu
hình mà không cần sử dụng Broadcast. Bên cạnh đó, Multicast có giới hạn trong IPv6,
một địa chỉ Multicast có chứa một trƣờng scope (phạm vi) có thể hạn chế các gói tin
Multicast trong các node, trong các link, hay trong một tổ chức.
+ Hỗ trợ tính năng di động: Tính di động (Mobility) là một tính năng rất quan trọng
trong hệ thống mạng ngày nay. Mobile IP là một tiêu chuẩn của IETF cho cả IPv4 và
IPv6. Mobile IP cho phép thiết bị di chuyển mà không bị đứt kết nối, vẫn duy trì đƣợc
kết nối hiện tại. Trong IPv4, mobile IP là một tính năng mới cần phải được thêm vào nếu
cần sử dụng. Ngược lại với IPv6, tính di động được tích hợp sẵn, có nghĩa là bất kỳ node
IPv6 nào cũng có thể sử dụng được khi cần thiết.
Thêm vào đó phần header của định tuyến trong IPv6 làm cho Mobile IPv6 hoạt động
hiệu quả hơn Mobile IPv4. Chính vì vậy, trong tương lai các thiết bị di động nhƣ laptop,
máy tính bảng, smartphone… sẽ dùng địa chỉ IPv6 tích hợp sử dụng trên cơ sở hạ tầng
của mạng viễn thông.
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:8
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
+ Bảo mật cao: IPSec (IP Security) là một tiêu chuẩn do IETF đưa ra cho lĩnh vực
an ninh mạng IP, được sử dụng cho cả IPv4 và IPv6. Mặc dù các chức năng cơ bản là
giống hệt nhau trong cả hai môi trường, nhưng với IPv6 thì IPSec là tính năng bắt buộc.
IPsec được kích hoạt trên tất cả các node IPv6 và sẵn sàng để sử dụng. Tính sẵn sàng của
IPsec trên tất cả các node làm cho IPv6 Internet an toàn hơn.
+ Tổng hợp địa chỉ: Addresss Aggregation là kỹ thuật tương tự với kỹ thuật Address
Summarize trong IPv4. Một ISP sẽ tổng hợp tất cả các prefix của các khách hàng thành
một tiền tố duy nhất và thông báo tiền tố này với cấp cao hơn. Việc tổng hợp địa chỉ sẽ
làm cho bảng định tuyến gọn hơn và khả năng mở rộng định tuyến nhiều hơn trên các
Router. Dẫn đến sự mở rộng hơn các chức năng mạng như tối ưu hóa băng thông và
tăng thông lượng sử dụng để kết nối được tới nhiều hơn các thiết bị và dịch vụ trên

mạng như: VoIP, tryền hình theo yêu cầu, Video độ nét cao, ứng dụng thời gian thực,
game-online, học tập hay hội thảo qua mạng…
1.6 Các quy tắc biểu diễn
128 bit của IPv6, đƣợc chia ra thành 8 Octet, mỗi Octet chiếm 2 byte (4 bit), gồm 4
số đƣợc viết dƣới hệ cơ số Hexa, và mỗi nhóm đƣợc ngăn cách nhau bằng dấu hai chấm.
IPv6 là 1 địa chỉ mới nên chúng ta không xài hết 128 bit, vì vậy sẽ có nhiều số 0 ở các bit
đầu nên ta có thể viết rút gọn để lƣợc bỏ số 0 này.
Ví dụ địa chỉ : 1088:0000:0000:0000:0008:0800:200C:463A
Ta có thể viết 0 thay vì phải viết là 0000, viết 8 thay vì phải viết 0008, viết 800 thay
vì phải viết là 0800. Địa chỉ đã đƣợc rút gọn:1088:0:0:0:8:800:200C:463A
IPv6 còn có một nguyên tắc nữa là chúng ta có thể nhóm các số 0 lại thành 2 dấu hai
chấm “::”, địa chỉ ở trên, chúng ta có thể viết lại nhƣ sau: 1088::8:800:200C:463A
Qua ví dụ trên, ta sẽ rút ra đƣợc 3 nguyên tắc:
+ Trong dãy địa chỉ IPv6, nếu có số 0 đứng đầu có thể loại bỏ. Ví dụ 0800 sẽ đƣợc
viết thành 800, hoặc 0008 sẽ đƣợc viết thành 8.
+ Trong dãy địa chỉ IPv6, nếu có các nhóm số 0 liên tiếp, có thể đơn giản các nhóm
này bằng 2 dấu :: (chỉ áp dụng khi dãy 0 liên tiếp nhau).
+ Trong IPv6, chúng ta chỉ có thể sử dụng 2 dấu hai chấm một lần với địa chỉ.
Không đƣợc viết ::AB65:8952::, vì nếu viết nhƣ thế sẽ gây nhầm lần khi dịch ra đầy đủ.
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:9
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
Ví dụ tổng hợp :
2031:0000:130F:0000:0000:09C0:876A:130B  ĐÚNG
2031:0:130f::9c0:876a:130b  ĐÚNG
2031::130f::9c0:876a:130b  SAI (chỉ đƣợc dùng 1 lần dấu 2 chấm)
FEC0:CD:FXB9:0067::2A4  SAI (không tồn tại X trong hệ Hexa)
2. Các loại địa chỉ
Địa chỉ IPv6 được chia ra thành 3 loại chính sau đây:
+ Unicast Address: Unicast Address dùng để xác định một interface trong phạm
vi các Unicast Address. Gói tin (Packet) có đích đến là Unicast Address sẽ thông qua

Routing để chuyển đến 1 interface duy nhất.
+ Anycast Address: Anycast Address dùng để xác định nhiều Interfaces. Tuy
vậy, packet có đích đến là Anycast Address sẽ thông qua Routing để chuyển đến một
interface trong số các interface có cùng Anycast Address, thông thường là interface
gần nhất. Chữ “gần nhất” ở đây được xác định thông qua giao thức định tuyến đang sử
dụng.
+ Multicast Address: Multicast Address dùng để xác định nhiều interfaces.
Packet có đích đến là Multicast Address sẽ thông qua Routing để chuyển đến tất cả các
interfaces có cùng Multicast Address. Trong IPv6 địa chỉ Broadcast đã bị loại bỏ và được
thay bằng địa chỉ Multicast.
2.1 Unicast Address
+ Global Unicast Address: Địa chỉ này được các ISP cấp cho người sử dụng có
nhu cầu kết nối Internet. Global Unicast Address giống như địa chỉ Public của IPv4.
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:10
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
+ Link-local Addresses: Đây là loại địa chỉ dùng cho các host khi chúng muốn
giao tiếp với các host khác trong cùng mạng LAN. Tất cả IPv6 của các interface đều có
địa chỉ link local
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:11
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
10 bits đầu là giá trị cố định 1111 1110 10 (Prefix FE80::/10)
54 bits kế tiếp có giá trị bằng 0
64 bits cuối : là địa chỉ của interface.
Kết luận : Trong Link Local Address: 64 bit đầu là giá trị cố định không thay đổi tương
ứng với prefix là FE80::/10
Có một lưu ý là Router không thể chuyển bất kỳ gói tin nào có địa chỉ nguồn hoặc địa
chỉ đích là Link Local Address.
+ Site-Local Addresses được sử dụng trong hệ thống nội bộ (Intranet) tương tự
các địa chỉ Private IPv4 (10.X.X.X, 172.16.X.X, 192.168.X.X). Phạm vi sử dụng Site-
Local Addresses là trong cùng 1 Site.

10 bits đầu là giá trị cố định 1111 1110 11 (Prefix FEC0::/10).
38 bits kế tiếp toàn bộ là bit 0.
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:12
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
16 bits kế tiếp là giá trị Subnet ID.
64 bits cuối là địa chỉ của interface.
Kết luận: Trong Site-local Address: 10 bit đầu là giá trị cố định không thay đổi
tương ứng với prefix là FEC0::/10
2.2 Multicast Address
Địa chỉ IPv6 Multicast được định nghĩa với prefix là FF::/8
Từ FF00:: đến FF0F:: là địa chỉ dành riêng đƣợc quy định bởi IANA để sử dụng
cho mục đích multicast.
Octet thứ hai chỉ ra cờ (flag) và phạm vi (Scope) của địa chỉ multicast. Flag xác
định thời gian sống của địa chỉ. Có 2 giá trị của flag :
+ Flag = 0 : Địa chỉ multilcast vĩnh viễn.
+ Flag = 1 : Địa chỉ multilcast tạm thời.
Scope chỉ ra phạm vi hoạt động của địa chỉ. Có 7 giá trị của Scope
+ Scope = 1 : Interface-local.
+ Scope = 2 : Link-local.
+ Scope = 3 : Subnet-local.
+ Scope = 4 : Admin-local.
+ Scope = 5 : Site-local.
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:13
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
+ Scope = 8 : Organization
+ Scope = E : Global.
2.3 Anycast Address
Anycast là địa chỉ hoàn toàn mới trong IPv6. Còn được gọi là địa chỉ One-to-
nearest (một đến gần nhất).
+ Địa chỉ Anycast là một địa chỉ Global Unicast được gán cho nhiều interface của

nhiều Router khác nhau trong cùng một WAN Scope, gói tin chuyển đến Anycast
Address sẽ được hệ thống định tuyến chuyển đến router có metric tốt nhất (router gần
nhất).
+ Hiện nay, địa chỉ Anycast được sử dụng rất hạn chế, rất ít tài liệu nói về cách sử
dụng loại địa chỉ này. Hầu như Anycast addresss chỉ được dùng để đặt cho Router,
không đặt cho Host, lý do là bởi vì hiện nay địa chỉ này chỉ được sử dụng vào mục đích
cân bằng tải.
Ví dụ : khi một nhà cung cấp dịch vụ mạng có rất nhiều khách hàng muốn truy cập
dịch vụ từ nhiều nơi khác nhau, nhà cung cấp muốn tiết kiệm nên chỉ để một Server trung
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:14
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
tâm phục vụ tất cả, họ xây dựng nhiều Router kết nối khách hàng với Server trung tâm,
khi đó mỗi khách hàng có thể có nhiều con đường để truy cập dịch vụ. Nhà cung cấp dịch
vụ đặt địa chỉ Anycast cho các Router kết nối đến Server trung tâm, bây giờ mỗi khách
hàng chỉ việc ghi nhớ và truy cập vào một địa chỉ Anycast duy nhất, tự động họ sẽ được
kết nối tới Server thông qua Router gần nhất. Đây thật sự là một cách xử lý đơn giản và
hiệu quả.
+ Địa chỉ Anycast không bao giờ được sử dụng như là địa chỉ nguồn của một gói
tin.
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:15
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
3. Triễn khai ở Việt Nam
Chuyển đổi sử dụng từ mạng IPv4 sang mạng IPv6 không phải là một công việc
dễ dàng hay có thể thực hiện ngay được. Trong trường hợp thủ tục IPv6 đã được chuẩn
hóa, hoàn thiện và hoạt động tốt, việc chuyển đổi có thể được thúc đẩy thực hiện trong
một thời gian nhất định đối với một mạng nhỏ, mạng của một tổ chức. Tuy nhiên khó có
thể thực hiện ngay được với một mạng lớn. Đối với INTERNET toàn cầu, việc chuyển
đổi ngay lập tức từ IPv4 sang IPv6 là một điều không thể.
Địa chỉ IPv6 được phát triển khi IPv4 đã được sử dụng rộng rãi, mạng lưới IPv4
Internet đã hoàn thiện và hoạt động ổn định. Trong quá trình triển khai thế hệ địa chỉ

IPv6 trên mạng Internet, không thể có một thời điểm nhất định nào đó mà địa chỉ IPv4 bị
hủy bỏ, IPv6 và IPv4 sẽ phải cùng tồn tại trong một thời gian rất dài. Trong quá trình
phát triển của mình, các kết nối IPv6 sẽ tận dụng cơ sở hạ tầng sẵn có của IPv4.
Đây là một vấn đề nóng bỏng của toàn thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Khi
chuyển sang sử dụng IPv6, ta có thể dễ dàng trong việc truy cập vào các địa chỉ trong
mạng Internet rộng lớn. Hơn nữa các thiết bị kết nối trong mạng có thể kết nối với nhau
và thay đổi thông tin với nhau. Tuy nhiên để kiểu mạng lưới này hoạt động, mỗi thiết bị
trong mạng cần phải có một địa chỉ IP (là thông số chỉ
Hiện nay tai Châu á một phần kế hoạch E –Japan initiative có mục đích chính là đưa
ngành công nghệ thông tin Nhật Bản vươn lên hàng đầu. Chính phủ Nhật Bản đẫ tài trợ
cho Hội Đồng xúc tiến IPv6 (IPv6 Promotion Council) thiết lập thử nghiệm giao thức
mới trong mạng của mộn số nhà cung cấp. Information Service International Dentsu
(ISID)- công ty tích hợp hệ thống tại Tokyo- đã xây dựng mạng IPv6 trong công ty này,
kết nối với hơn 5.000 hệ thống. Đại diện nhóm nghiên cứu ISID cho biết : dù đã triển
khai IPv6 nhưng quá trình chuyển đổi trong công ty diễn ra còn chậm. Hệ thống mạng có
hai ngăn phần mềm dành cho IPv4 và IPv6 để tiến hành hoà nhập từng bước. IPv6 vẫn
còn cần phát triển tiếp vấn đề bảo mật kết nối chạy hoàn toàn trên IPv6 sẽ mất đi một số
tính năng bảo mật của IPv4. Hỗ trợ IPv6 tường lửa (firewall ) chẩng hạn sẽ là một đòi hỏi
tiên quyết khác côngnghệ mới.
Tuy nhiên Cico nhà sản xuất bộ định tuyến chính thống trị thế giới mới chỉ cung cấp khả
năng IPv6 cho các bộ định tuyến qua các phần mềm, và dự định chỉ sẽ giới thiệu phần
cứng hỗ trợ IPv6 trong năm nay. Riêng hệ điều hành Windows XP hiện có sẵn cả tính
năng IPv4 và IPv6 , chủ yếu dùng xây dựng sẵn sàng IPv6. Hệ điều hành máy chủ hiện
tại của Windows 2000 Server cũng có sẵn một bộ công cụ phảt triển phần mềm
dành cho các ứng dụng và thiết bị.
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:16
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
Vào cuối năm 2002 Microsoft cũng giới thiệu tính năng IPv6 tỏng bộ nâng cấp dành cho
Windows XP và thế hệ hệ điều hành máy chủ kế tiếp windows. Net Server. Hãng Sun
Microsytems đã hỗ trợ IPv6 trong phiên bản Solari 8 phát hành trên thị trường ngay từ

năm 2000. Nếu một máy chủ Solaris 8 được cắm vào mạng IPv6, nó có thể tự đông trao
đổi ccs gói tin IPv6.
Riêng trong hệ điều hành Linux, giao thức IPv6 chưa được tích hợp sẵn nhưng nó được
cung cấp kèm theo trong phiên bản Red Hat không chính thức cung cấp hỗ trợ cho thành
phần IPv6. Một số ứng dụng cơ bản, như truyền tập tin, email, DNS, đang được điều
chỉnh để có thể làm việc với giao thúc mới, tiếp sau dó sẽ là những ứng dụng phức
tạp như cơ sở dữ liệu.
Đồ gia dụng chắc chắn sẽ là một trong những thiết bị đầu tiên được lựa chọn kết nối vào
mạngIP v6, khi mà việc cung cấp địa chỉ IPv6 trở lên dễ dàng vì nó là vô hạn mà lại rất
an toàn bởi tính bảo mật cao mà IPv4 không có. Thậm chí ngay bây giờ, các nhà sản xuất
đồ gia dụng đang triển khai kỹ thuật kết nối các sản phẩm
Rất có thể đến một ngày nào đó tất cả các thiết bị sử dụng dịch vụ không dây (LAN), các
server gia đình, automobile telematics và các vật dụng khác đều sẽ
Trên thực tế tại Việt Nam, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet chưa nhận thấy sự
càn thiết phải sử dụng đến IPv6 vì không bức xúc trước nguy cơ cạn kiệt tên miền. Cho
đến thời điểm này, Việt Na chưa có hoạt động thúc đẩy ứng dụng IP6 và chưa được phân
bổ vùng địa chỉ IPv6 từ Quốc tế. Hiện tại chỉ có VNPT và NetNam đã tham gia đề tài
“triển khai thử nghiệm mạng IPv6 ở Việt Nam và kết nối mạng IPv6 Quốc tế”. VNPT
cũng là đơn vị đầu tiên yêu cầu địa chỉ IPv6 và cũng là doang nghiệp duy nhất đủ tiêu
chuẩn cấp phát địa chỉ IPv6. Theo các chuyên gia thì vấn đề đặt ra đối với Việt Nam hiện
nay là phải xác định bài toán liệu có đủ sức để phát triển các loại dịch vụ và ứng dụng
mới đi theo nền tảng ứng dụng IPv6 hay không?
Hiện trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC) cũng đã thực hiện một số hoạt động nghiên
cứu về công nghệ và chính sách IPv6 của khu vực và Quốc tế.
VNNIC đang xem xét phương án triển khai thiết lập mạng thử nghiệm IPv6 công cộng
có thể dựa trên cơ sở hạ tầng có sẵn. theo đề nghị của VNNIC, cân phải có chính sách
khuyến khích phát triển công nghệ phần cứng, phần mềm và ứng dụng IPv6. Ngoài ra,
VNNIC còn đề nghị cần đầu tư cho nghiên cứu phát triển các ứng dụng IPv6. Bên cạnh
đó, Chính phủ cần phải có chiến lược lâu dài phát triển IPv6 để bắt kịp sự phát triển của
công nghệ. Theo một quan chức của Bô bưu chính Viễn thông trong chiến lược BCVT

đến năm 2010 cũng đã đề cập đến việc phát triển địa chỉ tên miền IPv6. Vì vậy ngay từ
bây giờ Bộ cũng sẽ phải xem xét để có chủ chương, chính sách đối với vấn dề phát triển
IPv6 ở Việt Nam.
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:17
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
Không ngoài xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang có nhiều hành động tích
cực thúc đẩy phát triển địa chỉ IPv6. Ngày 6/5/2008, Bộ trưởng Bộ thông tin và Truyền
thông đã ban hành chỉ thị số 03/2008/CT-BTTTT về việc thúc đẩy sử dụng địa chỉ
Internet thế hệ mới IPv6, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình triển khai IPv6 ở
Việt Nam. Đến ngày 06/01/2009, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban
hành Quyết định số 05/QĐ-BTTTT thành lập Ban Công tác thúc đẩy phát triển IPv6 quốc
gia (IPv6 Task Force) do Thứ trưởng thường trực Lê Nam Thắng làm Trưởng ban và các
thành viên là lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, các bộ ngành liên
quan và các ISP chủ chốt của Việt Nam. Ngay sau khi thành lập, Ban Công tác thúc đẩy
phát triển IPv6 quốc gia đã tổ chức phiên họp lần thứ nhất nhằm đề ra phương hướng, kế
hoạch hoạt động của Ban và đặc biệt là khởi động chương trình xây dựng Kế hoạch hành
động quốc gia về IPv6. Đến nay đã có tổng cộng 28 khối địa chỉ IPv6 được cấp phát cho
các doanh nghiệp, tổ chức Việt Nam.

Tuy Bộ Thông tin và Truyền thông đã có những động thái thúc đẩy, nâng cao nhận thức
về tầm quan trọng của việc triển khai địa chỉ IPv6 nhưng mức độ ứng dụng IPv6 trong
hoạt động mạng tại Việt Nam còn thấp. Các ISP Việt Nam vẫn chưa thực sự bắt tay vào
việc nghiên cứu, hoạch định và xây dựng kế hoạch sử dụng thế hệ địa chỉ IPv6. Tính đến
tháng 6/2010, Việt Nam là Quốc gia đứng thứ 38 trên thế giới về số lượng vùng địa chỉ
IPv6 được cấp phát. Tuy nhiên, trên khía cạnh sử dụng thực tế sử dụng (tính theo số
lượng vùng địa chỉ IPv6 được quảng bá định tuyến trên tổng số vùng địa chỉ được cấp)
thì Việt Nam chỉ xếp hạng thứ 90 (thống kê từ Tổ chức SixXS).

Kết luận
Như vậy ta đã thấy được vai trò quan trọng của địa chỉ IP với các hệ thống mạng

hiện nay. Với sự cạn kiệt của không gian địa chỉ IPv4, việc chuyển sang địa chỉ IPv6 là
tất yếu. Do đó, trước tiên, ta phải nắm được những kiến thức cơ bản về địa chỉ IPv6, đã
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:18
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
được trình bày trong báo cáo này. Từ đó, có thể đi vào triển khai các dịch vụ như web,
mail, DNS… trên nền IPv6 cũng như chuyển địa chỉ IPv4 sang IPv6. Báo cáo bài tập
nhóm của chúng em còn nhiều thiếu sót. Rất mong cô và các bạn góp ý sửa chũa. Chúng
em xin chân thành cám ơn cô đã giúp đỡ chúng em hoàn thành báo cáo này.
Tại liệu tham khảo
1. - lần cuối truy cập 10.16am 27/01/2008
2. - lần cuối truy cập 10.16am 27/01/2008
3. Giáo trình mạng máy tình- Đại học Duy Tân
4. - bách khoa toàn thư
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:19
BÀI TẬP NHÓM GVHD: NGUYỄN LÊ MAI DUYÊN
KỸ THUẬT TRUYỀN SỐ LIỆU Trang:20

×