Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Nghị định thư KYOTO (bản đầy đủ) pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.38 KB, 6 trang )

Nghị định thư Kyoto là một nghị định liên quan đến Chương trình khung về vấn đề biến đổi khí
hậu (Framework Convention on Climate Change) mang tầm quốc tế của Liên hiệp quốc với mục
tiêu cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Bản dự thảo được kí kết vào ngày 11 tháng
12 năm 1997 tại Hội nghị các bên tham gia lần thứ ba (3rd Conference of the Parties) khi các bên
tham gia nhóm họp tại Kyoto, và chính thức có hiệu lực vào ngày 16 tháng 2 năm 2005
Kể từ tháng 11/2007 đã có khoảng 175 nước kí kết tham gia chương trình này. Trong đó có
khoảng 36 nước phát triển (với liên minh Châu Âu được tính là một) được yêu cầu phải có hành
động giảm thiểu khí thải nhà kính mà họ đã cam kết cụ thể trong nghị trình (lượng khí này chiếm
hơn 61.6% của lượng khí của nhóm nước Annex I
[1]

[2]
cần cắt giảm). Nghị định thư cũng được
khoảng 137 nước đang phát triển tham gia kí kết trong đó gồm Brazil, Trung quốc đại lục và Ấn
độ nhưng không chịu ràng buột xa hơn các vấn đề theo dõi diễn biến và báo cáo thường niên về
vấn đề khí thải.
Bên cạnh đó cũng còn nhiều tranh cãi xung quanh mức độ hiệu quả của nghị định này giữa các
chuyên gia, khoa học gia và những nhà hoạt động môi trường. Một vài nghiên cứu về phí tổn bỏ
ra nhằm hậu thuẫn cho sự thành công của nghị định cũng đã được quan tâm tiến hành.
Nội dung chính
Nghị định thư Kyoto là một cam kết được tiến hành dựa trên các nguyên tắc của Chương trình
khung của Liên hiệp quốc về vấn đề biến đổi khí hậu (United Nations Framework Convention on
Climate Change-UNFCCC). Trong đó những quốc gia tham gia kí kết phải chấp nhận việc cắt
giảm khí CO2 và năm loại khí gây hiệu ứng nhà kính khác, hoặc có thể tiến hành biện pháp thay
thế như “Emission trading” nếu không muốn đáp ứng yêu cầu đó.
Theo một bài báo về Chương trình biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc thì:
Nghị định thư đại diện cho sự thống nhất giữa các quốc gia công nghiệp trong vấn đề cắt giảm
khí thải trên 5.2% so với năm 1990 (lưu ý rằng mức độ cắt giảm theo đó đến năm 2010 phải đạt
được thì chỉ tiêu này là khoảng 29%). Mục tiêu hướng đến việc giảm thiểu các loại khí carbon
dioxide, methane, nitrous oxide, sulfur hexafluoride, hydrofluorocarbons và perflourocarbons
trong khoảng thời gian 2008-1021. Mức trần đã được qui định cho các nước tham gia cụ thể là


8% mức cắt giảm cho Liên minh Châu Âu và 7% cho Hoa Kỳ, 6% với Nhật Bản, 0% với Nga
trong khi mức hạn ngạch cho phép tăng của Úc là 8%, và 10% cho Iceland
[3]
.
Đó là sơ thảo do Chương trình khung về vấn đề biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc đưa ra -
UNFCCC khi được nhất trí trong Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu tại Rie de Janeiro vào 1992. Khi
đó chỉ có những nước thuộc Chương trình khung về vấn đề biến đổi khí hậu mới tham gia kí kết.
Sau đó Nghị định thư Kyoto mới được đệ trình trong phiên họp thứ ba của Hội nghị các bên tham
gia nằm trong Chương trình khung về vấn đề biến đổi khí hậu được tổ chức vào năm 1997 tại
Kyoto, Nhật Bản.
Hầu hết những điều khoản trong Nghị định thư là yêu cầu dành cho các nước công nghiệp phát
triển - được liệt vào nhóm Annex I trong UNFCCC, và không có hiệu lực đối với các nguồn khí
thải đến từ lãnh vực hàng không và hàng hải thuộc phạm vi quốc tế.
Nghị định thư giờ đây có hiệu lực với hơn 170 quốc gia, chiếm khoảng 60% các nước liên quan
đến vấn đề khí thải nhà kính. Tính đến tháng 12 năm 2007, Hoa Kỳ và Kazakhstan là hai nước
duy nhất không tiến hành các biện pháp cắt giảm dù có tham gia kí kết nghị định thư. Hiệu lực
của bản hiện tại sẽ hết vào năm 2012, để vun đắp thành công cho nghị trình hiện tại, nhiều hội
nghị quốc tế với sự tham gia của các bên liên quan đã được tiến hành từ tháng 5/2007
[4]
.
Những nguyên tắc chính trong Nghị định thư Kyoto
Nghị định được kí kết bởi chính phủ các quốc gia tham gia Liên hiệp quốc và được điều hành
dưới các nguyên tắc do tổ chức này qui ước. Các quốc gia được chia làm hai nhóm: nhóm các
nước phát triển-còn gọi là Annex I (vốn sẽ phải tuân theo các cam kết nhằm cắt giảm khí gây
hiệu ứng nhà kính ) và buộc phải có bản đệ trình thường niên về các hành động cắt giảm khí thải;
và nhóm các nước đang phát triển-hay nhóm các nước Non-Annex I (không chịu ràng buộc các
nguyên tắc ứng xử như Annex I nhưng có thể tham gia vào Chương trình cơ cấu phát triển sạch
(The Clean Development Mechanism-CDM)).
Các quốc gia Annex I không đáp ứng được yêu cầu đặt ra như trong bản kí kết sẽ phải cắt giảm
thêm 1.3 lượng khí vượt mức cho phép trong thời hạn hiệu lực tiếp theo của nghị định thư.

Kể từ tháng 1/2008 đến hết năm 2012, nhóm nước Annex I phải cắt giảm lượng khí thải để lượng
khí thải ra thấp hơn 5% lượng khí vào năm 1999 (với nhiều nước thành viên Châu Âu, mức này
tương đương khoảng 15% lượng khí họ thải ra vào năm 2008). Trong khi trung bình của lượng
khí phải cắt giảm là 5%, mức dao động giữa các quốc gia của Liên minh Châu Âu là 8% đến 10%
(đối với Iceland), nhưng do ràng buộc với nghị định thư với từng nước trong khối có khác nhau
[5]

nên một số nuớc kém phát triển trong EU có thể được phép giữ cho mức tăng đến 27% (so với
1999). Quy ước này sẽ hết hạn vào năm 2013.
Nghị định thư Kyoto cũng cho phép một vài cách tiếp cận linh hoạt cho các nước Annex I nhằm
đạt được mục tiêu cắt giảm khí thải bằng cách cho phép các nước này mua lượng khí cắt giảm
được từ những quốc gia khác. Điều này có thể đạt được dưới hình thức tài chính hay từ những
chương trình hỗ trợ công nghệ cho các nước Non-Annex I (vốn có tham gia vào Chương trình cơ
cấu phát triển sạch-CDM) để các nước này hoàn thành mục tiêu đã kí kết trong Nghị định thư,
trong đó chỉ có những thành viên được chứng nhận CER (Certified Emission Reductions) trong
Chương trình cơ cấu phát triển sạch mới được phép tham gia.
Trong thực tế, điều này có nghĩa là các nền kinh tế Non-Annex I không bị bắt buộc phải giới hạn
lượng khí thải gây ra, nhưng một khi chương trình cắt giảm khí thải được xúc tiến ở các quốc gia
này nó sẽ nhận được một lượng hạn ngạch carbon cho phép (Carbon Credit), vốn có thể bán cho
các nước Annex I. Qui định này xuất hiện trong Nghị định thư do:
• Có dấu hiệu lo ngại rằng chi phí bỏ ra cho mục tiêu được kí kết trong Nghị định thư là
quá đắt đối với các nước Annex I, đặc biệt là các nước đã đầu tư rất hiệu quả cho việc bảo
vệ môi trường trên đất nước họ và đã đạt tiêu chuẩn môi trường sạch. Vì lí do đó Nghị
định thư cho phép những nước này mua lượng hạn ngạch carbon cho phép (Carbon
Credit) từ các nước Non-Annex I trên thế giới thay vì tiến hành nâng cấp tiêu chuẩn môi
trường trong nước.
• Điều này được xem như một công cụ hiệu quả nhằm khuyến khích các nước Non-Annex I
giảm thiểu khí gây hiệu ứng nhà kính (phát triển bền vững), hơn nữa điều này là rất kinh
tế vì lượng đầu tư vào các quốc gia Non-Annex I sẽ tăng lên thông qua việc mua bán hạn
ngạch carbon cho phép (với điều kiện các nước này phải tham gia vào chương trình cắt

giảm khí thải qua chương trình CDM).
Mục tiêu chính
Nghị định thư Kyoto được mong đợi sẽ là một thành công trong vấn đề cắt giảm khí gây hiệu ứng
nhà kính.
Mục tiêu được đặt ra nhằm "Cân bằng lại lượng khí thải trong môi trường ở mức độ có thể ngăn
chặn những tác động nguy hiểm cho sự tồn tại và phát triển của con người vốn chịu ảnh hưởng
sâu sắc của môi trường
[6]
".
Theo Chương trình hợp tác giữa các chính phủ về vấn đề biến đổi khí hậu (The
Intergovernmental Panel on Climate Change -IPCC) nhiệt độ toàn cầu sẽ gia tăng từ 1.4°C (2.5°F)
đến 5.8°C (10.4°F) từ 1990 đến 2100
[7]
.
Các bên ủng hộ cho cũng nhấn mạnh rằng Nghị định thư Kyoto phải là bước đầu tiên
[8][9]
vì các
điều kiện để thỏa mãn Chương trình khung về vấn đề biến đổi khí hậu - UNFCCC sẽ được liên
tục cân nhắc sửa đổi cho phù hợp nhất
[10]
để hoàn thành mục tiêu cân bằng khí thải ở mức độ
thích hợp cho sự phát triển của con người.
Con đường đi đến hiệu lực của Nghị định thư Kyoto
Hiệu lực của Nghị định thư Kyoto: màu xanh cho các nước đã tham gia kí kết, vàng đối với các
nước đang tiến hành kí kết, và màu đỏ cho các nước dù có kí kết tham gia (ủng hộ) nhưng không
tuân theo các điều khoản của Nghị định thư.
Các điều khoản trong Nghị định thư đã được đưa ra bàn thảo vào tháng 12/1997 tại thành phố
Kyoto - Nhật Bản và được đưa ra kí kết thông qua từ 16/3/1998 đến 15/3/1999. Sau đó chính thứ
có hiệu lực từ ngày 16 tháng 2 năm 2005. Đến tháng 11 năm 2007 đã có 175 nước và đại diện
chính phủ các nước tham gia kí kết (chiếm hơn 61.1% lượng khí thải từ các nước Annex I).

Theo điều khoản 25 của Nghị định thư, thời gian hiệu lực sẽ được tính sau khoảng thời gian 90
ngày kể từ khi Nghị định đã có đủ 55 quốc gia tham gia kí kết và lượng khí thải của các nước này
phải chiếm ít nhất 55% lượng carbon dioxide do các nước Annex I thải ra vào năm 1990. Điều
kiện thứ nhất được thoả mãn vào ngày 23 tháng 5 năm 2002 khi số lượng 55 nước tham gia đạt
được với chữ kí của Iceland, trong khi điều kiện thứ hai phải đến ngày 18 tháng 11 năm 2004 mới
đạt được với sự tham gia của Nga.
Không lâu sau đó, Nghị định thư Kyoto đã chính thức có hiệu lực cho tất cả các bên tham gia kí
kết, đó là ngày 16 tháng 2 năm 2005.
Tình trạng hiện tại của các nước tham gia
Nhật Bản
Trong cuộc gặp gỡ tháng 11 năm 2007 tại Washington D.C., Thủ tướng Nhật Bản Yasuo Fukuda
và Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush nhấn mạnh về sự hợp tác tiếp tục giữa hai nước về vấn
đề biến đổi khí hậu, phát triển sạch và an ninh năng lượng. Theo đó hai bên đã cùng đưa ra các
cam kết:
• Quyết không để Hiệp định khung về vấn đề biến đổi khí hậu (ở VN hay gọi là Công ước
khung) Bali sụp đổ và cùng lập nên một "Lộ trình Bali " nhằm tạo một sức nặng cần thiết
cho các cuộc hội đàm để thông qua một Hiệp định hoàn chỉnh vào 2012.
• Liên quan đến Hội nghị thượng đỉnh G8 sẽ được tổ chức ở Hokkaido, Toyako sắp tới, hai
nước cam kết lẫn nhau về việc thỏa mãn các yêu cầu về vai trò đối với các nghĩa vụ trên
cương vị là thành viên của G8, song song đó hai nước sẽ tiếp tục hợp tác để có bước tiến
rõ ràng hơn cho một Hiệp định khung nhận nhiều sự đồng thuận vào 2012.
• Lập một chương trình riêng trong Hội nghị thượng đỉnh G8 nhằm xác định các đóng góp
cụ thể cho công tác bảo vệ môi trường của từng nước trước 2009 và cùng theo đuổi một
thỏa ước trong đó cho phép dung hoà giữa các cam kết môi trường đi kèm một nền kinh tế
phát triển bền vững.
• Cùng tập trung vào các thảo luận để có một nền kinh tế bền vững dựa trên các tiêu chuẩn
môi trường toàn cầu:
1. Một mục tiêu dài hạn cho công tác cắt giảm khí gây hiệu ứng nhà kính đi cùng với mục
tiêu phát triển kinh tế.
2. Các chương trình quốc gia cho phép xác định các mục tiêu trung hạn để hỗ trợ cho mục

tiêu toàn cầu kèm với các công cụ chính sách thích hợp nhằm theo dõi tiến trình bảo vệ
môi trường một cách hiệu quả nhất.
3. Tiến hành các dự án hợp tác phát triển công nghệ và triển khai các chiến lược trong các
lãnh vực chủ chốt gồm nhà máy phát điện có hàm lượng khí cacbon thải thấp, công nghệ
sạch trong phương tiện chuyên chở, các chương trình khai thác đất đai, chú ý phát triển
các nguồn năng lượng thay thế (nguyên tử, mặt trời, năng lượng gió) và nâng cao tiêu
chuẩn môi trường hiện tại.
4. Có biện pháp cơ cấu các khoản tài chính cho mục tiêu hỗ trợ phát triển công nghệ sạch đi
kèm với các chính sách thích hợp kích thích tiêu dùng các sản phẩm hàng hóa dịch vụ từ
công nghệ sạch.
5. Nhanh chóng cải cách các chính sách theo dõi tiến trình bảo vệ môi trường hiện tại để các
nước thành viên Liên hiệp quốc đều có thể cùng áp dụng tham gia.
• Góp phần nêu bật các giá trị có được thông qua các chương trình hỗ trợ phát triển môi
trường toàn cầu, nhấn mạnh sự hợp tác giữa khu vực công và tư trong các đề án phát triển
như đã đề cập trong Thỏa thuận của liên hiệp Châu Á - Thái Bình Dương về khí hậu và
phát triển sạch (Asia-Pacific Partnership on Clean Development and Climate-APP)
• Tiếp tục vai trò lãnh đạo của hai nước trong nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển năng
lượng và công nghệ môi trường sạch, song song với việc khuyến khích các nền kinh tế
phát triển khác tiếp tục tăng ngân sách cho việc bảo vệ môi trường.
• Cải thiện hợp tác trên các lãnh vực về năng lượng nguyên tử dưới các điều ước kí kết
trong Cộng tác toàn cầu về năng lượng hạt nhân (Global Nuclear Energy Partnership) và
Kế hoạch hợp tác năng lượng hạt nhân Mỹ-Nhật (U.S Japan Joint Nuclear Energy Action
Plan) nhằm đạt được các mục tiêu về cắt giảm khí thải trên nền tảng các tiêu chuẩn an
toàn và hạn chế vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Cùng chung trách nhiệm nhưng chấp nhận khác biệt
Chương trình khung về vấn đề thay đổi khí hậu của Liên hiệp quốc đồng ý về sự có mặt của điều
khoảng trong đó nhấn mạnh về trách nhiệm chung của các nước tham gia nhưng cũng cho phép
sự khác biệt của từng nước, theo đó:
• Vấn đề khí thải gây hiệu ứng nhà kính đã xuất hiện từ rất lâu và phần nhiều liên quan đến
các nước công nghiệp phát triển.

• Lượng khí thải tính theo đầu người tại các nước đang phát triển nhìn chung là không cao
• Phần khí thải của các nước đang phát triển phải được tăng lên để đáp ứng cho nhu cầu
hiện tại của xã hội và để thỏa mãn các nhu cầu phát triển khác
[11]
.
Nói cách khác, những quốc gia như Trung quốc đại lục, Ấn độ và các nước đang phát triển khác
sẽ không bị ràng buộc bởi những hạn mức trong Nghị định thư Kyoto do không phải là những
nhân tố chính tham gia vào thời kì phát triển tiền công nghiệp. Tuy nhiên những nước này vẫn có
trách nhiệm chia sẻ những quan điểm chung với các nước khác về trách nhiệm đối với vấn đề cắt
giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
Thương mại khí thải
Một nhà máy nhiệt điện chạy bằng than ở Đức. Do những tiêu chuẩn cắt giảm khí thải từ Kyoto
Protocol, than đá sẽ trở thành dạng năng lượng kém cạnh tranh trong tương lai.
Nghị định thư Kyoto chấp nhận một hệ thống cho phép thương mại hóa lượng khí thải cắt giảm
gọi là "cap and trade system" nhằm giúp các nước Annex I linh hoạt hơn
[12]
khi tiến hành các biện
pháp cắt giảm khí gây hiệu ứng nhà kính. Bình quân những nước này cần phải đạt mục tiêu lượng
khí thải hàng năm thấp hơn 5.2% so với lượng thải năm 1990 và cam kết này có hiệu lực từ 2008
đến 2012. Mặc dù điều này được áp dụng cho mọi thành phần kinh tế nhưng trong thực tế các
nước tham gia điều tiến hành đối với các loại hình liên quan đến các cơ sở công nghiệp sản xuất
năng lượng và giấy. Một ví dụ về loại hình thương mại khí thải này phải kể đến là chương trình
thương mại khí thải của Liên minh Châu Âu
[13]
In the United States there is a national market to
reduce acid rain and several regional markets in nitrous oxide.
[14]
- European Union Emission
Trading Scheme (EU ETS).
Điều này có nghĩa những thành phần mua hạn ngạch sẽ là những đơn vị sản xuất kinh doanh có

mức khí thải vượt quá số hạn ngạch cho phép (Đơn vị cấp phát cố định -the Assigned Allocation
Units, AAUs hay ngắn gọn là "Mức cho phép"). Cụ thể những đơn vị sản xuất này sẽ phải mua
thêm số AAUs trực tiếp từ một bên khác nhằm gia tăng mức hạn ngạch cho phép, chủ yếu từ
Chương trình cơ cấu phát triển sạch - CDM hoặc dưới các hình thức trao đổi thương mại khác.
Vì hạn ngạch carbon cho phép là những đơn vị có thể thương mại hóa dưới hình thức định dạng
giá cả nên những nhà đầu tư có thể mua lại nhằm mục đích đầu cơ hay dành cho các thương vụ
tương lai. Các giao dịch trên thị trường thứ cấp này sẽ giúp giá cả của mức hạn ngạch carbon cho
phép thay đổi linh hoạt hơn nhằm giúp các cơ sở kinh doanh hay các dự án đầu tư nhằm thu hút
vốn nước ngoài (ví dụ như Trung Quốc muốn thu hút đầu tư vào nước họ thì chính phủ sẽ hỗ trợ
các thành phần kinh doanh hạn ngạch carbon bằng các hình thức trợ giá, và như vậy các cơ sở sản
xuất ở TQ sẽ mua hạn ngạch carbon với giá thấp hơn so với các cơ sở ở Thụy Điển chẳng hạn).
Hạn ngạch khí thải qui định trong Nghị định thư Kyoto được cung cấp bởi Chương trình cơ cấu
phát triển sạch - CDM và Chương trình hỗ trợ bổ sung - Joint Implementation (Projects)/JI.
Chương trình cơ cấu phát triển sạch/CDM cho phép các nước Non-Annex I thương mại hóa các
khoản hạn ngạch carbon của nó trong khi Chương trình hỗ trợ bổ sung/JI cho phép các nước
Annex I qui đổi lượng khí thải vượt trần cho phép (đã cam kết khi kí Nghị định thư Kyoto) sang
lượng khí thải tương ứng của các nước Non-Annex I có tham gia Chương trình cơ cấu phát triển
sạch dưới dạng các đơn vị hạn ngạch carbon. Chương trình CDM sẽ cung cấp Chứng nhận cắt
giảm khí thải (CERs), và chương trình JI sẽ đưa ra Đơn vị khí thải cắt giảm (Emission Reduction
Units - ERUs), vốn dĩ có giá trị tương đương với một Đơn vị cấp phát cố định (the Assigned
Allocation Units - AAUs).
Ủng hộ
Những người ủng hộ Nghị định thư Kyoto cho rằng công cuộc đấu tranh giảm thiểu các loại khí
thải gây hiệu ứng nhà kính là việc làm tối quan trọng vì các loại khí này là nguyên nhân hàng đầu
gây ra tình trạng ấm nóng toàn cầu. Ý kiến này cũng đã được minh chứng bằng nhiều nghiên cứu.
Hầu như toàn bộ quốc hội của các nước tham gia kí kết điều ủng hộ các qui tắc ứng xử trong
Nghị định thư. Trong đó phần nhiều là các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu và các tổ chức bảo
vệ môi trường. Bản thân Liên hiệp quốc và các cơ quan tham vấn phát triển công nghệ (chủ yếu
là của các nước G8) cũng đã đệ trình những báo cáo ủng hộ cho tương lai của Nghị định thư
Kyoto.

Một nhóm các tổ chức thương mại lớn của Canada cũng lên tiếng kêu gọi những hành động cấp
bách cho vấn đề ấm nóng toàn cầu và nhấn mạnh rằng Nghị định thư Kyoto chỉ là bước quan
trọng đầu tiên.
Phản đối
Một vài chuyên gia quan tâm đến vấn đề gia tăng nhiệt độ toàn cầu cho rằng Nghị định thư sẽ có
tác động tiêu cực đến sự gia tăng của các nền dân chủ trên thế giới do các tác động của nó trong
tiến độ chuyển giao thành quả công nghiệp cho các nước thuộc thế giới thứ ba. Một số khác lại
cho rằng những đóng góp của Nghị định thư không đủ cho vấn đề cắt giảm lượng khí thải cần
thiết cho mục tiêu mà nó đề ra
[15]
.
Mặt khác cũng có tiếng chỉ trích từ các chuyên gia kinh tế môi trường
[16]

[17]

[18]
với suy nghĩ rằng
chi phí bỏ ra cho hoạt động duy trì mục tiêu Nghị định thư là vượt xa hiệu quả mà nó mang lại,
họ cũng bày tỏ hoài nghi về sự lạc quan quá mức trong khi chỉ có một lượng nhỏ khí thải được
cắt giảm thông qua các cam kết

×