Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

19 câu hỏi và đáp án môn lịch sử hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.65 KB, 72 trang )

Trang 1
19 CÂU HỎI TỰ LUẬN
VÀ ĐÁP ÁN
MÔN: LỊCH SỬ HÀNH CHÍNH

Câu 1: Trình bày những cơ sở của sự hình thành nền hành chính đầu tiên ở
nước ta thời đại Hùng Vương - An Dương Vương?
Trả lời:
Nhà nước là một phạm trù lịch sử của xã hội có giai cấp. Điều kiện quan trọng số
một để nhà nước có thể ra đời được là trên cơ sở sản xuất phát triển dẫn đến tình trạng
phân hoá xã hội. Nhà nước ra đời là sản phẩm tất yếu của một xã hội mà mâu thuẫn
không thể điều hoà được. Đây là một quy luật chung của tất cả các nhà nước trên thế giới,
không loại trừ bất cứ một quy luật nào cả. Và nhà nước Văn Lang ra đời cũng không nằm
ngoài quy luật đó.
Công xã nông thôn là một hình thái kinh tế xã hội xuất hiện phổ biến vào giai đoạn
tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ và quá độ sang xã hội có giai cấp, là một trong
những tiền đề cho sự hình thành nhà nước.
- Thời Hùng Vương sức sản xuất phát triển đã gây ra nhiều biến động xã hội và
đưa đến tình trạng phân hoá xã hội rõ nét vào giai đoạn văn hoá Đông Sơn. Lúc này đã
có kẻ giàu, người nghèo và tình trạng bất bình đẳng đã in đậm trong khu mộ táng hay
truyền thuyết dân gian và thư tịch cổ. Tuy nhiên, nó vẫn chưa thật cao, chưa thật sâu sắc
nhưng nó đã tạo ra một cơ sở xã hội cần thiết cho quá trình hình thành nhà nước Văn
Lang.
- Nhân tố thuỷ lợi và tự vệ cũng đã đóng vai trò rất quan trọng đưa đến sự hình
thành lãnh thổ chung và tổ chức nhà nước đầu tiên vào thời Đông Sơn. Khi con người tiến
xuống khai phá vùng đồng bằng Sông Hồng và chọn thì uy tín và vai trò của Thục Phán -
người thủ lĩnh kiệt xuất của liên minh ngày càng được nâng cao. Kháng chiến thắng lợi,
Thục Phán đã thay Hùng Vương tự xưng là An Dương Vương lập ra nước Âu Lạc.
Tên nước Âu Lạc bao gồm hai thành tố Tây Âu (Âu Việt) và Lạc Việt, phản ánh sự
liên kết của hai nhóm người Lạc Việt và Tây Âu. Nước Âu Lạc là bước kế tục và phát
triển cao hơn của nước Văn Lang và tên một phạm vi rộng lớn hơn. Tổ chức bộ máy nhà


nước và các đơn vị hành chính thời Âu Lạc vẫn không có gì thay đổi so với thời Văn
Lang.
Trang 2
Đứng đầu nhà nước là Thục Phán An Dương Vương. Dưới đó, trong triều vẫn có
lạc hầu giúp vua cai quản đất nước. ở các địa phương (bộ) vẫn do các lạc tướng đứng đầu
quản lý. Đơn vị hành chính cấp cơ sở vẫn là công xã nông thôn (kẻ, chiềng, chạ).
Trong thời đại dựng nước, ta có nhiều thành tựu lớn, trong đó có 2 thành tựu cơ
bản nhất là tạo được một nền văn minh rực rỡ - nền văn minh sông Hồng và hình thái nhà
nước sơ khai - nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. Những thành tựu này không chỉ là bằng
chứng hùng hồn xác nhận thời đại Hùng Vương - An Dương Vương là những thời đại có
thật mà còn minh chứng cho chúng ta thấy rằng đất nước Việt Nam có một lịch sử dựng
nước sớm, một nền văn minh lâu đời, tạo ra nền tảng bền vững cho toàn bộ sự sinh tồn và
phát triển của quốc gia dân tộc Việt Nam. Từ đó người Việt trên cơ sở một lãnh thổ
chung, một tiếng nói chung một cơ sở kinh tế - xã hội gắn bó trong một thể chế nhà nước
sơ khai một lối sống mang sắc thái riêng biểu thị trong một nền văn minh, văn hoá chung,
đã tự khẳng định sự tồn tại của mình như một quốc gia văn minh có đủ điều kiện và khả
năng vững vàng tiến qua nhiều thời kỳ đen tối nhất của lịch sử - thời kỳ hơn 1000 năm
Bắc thuộc.
Câu 2: Trình bày khái quát về cơ cấu nền hành chính của thời đại dựng nước
đầu tiên?
Trả lời:
Do sản xuất phát triển, xã hội phân hoá, nhu cầu trị thủy và chống giặc ngoại xâm
mà các bộ lạc người Việt cổ liên minh với nhau tạo thành một nhà nước sơ khai - Nhà
nước Văn Lang.
Đứng đầu nhà nước là Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu. Căn cứ vào các di tích
khảo cổ thời Hùng Vương từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn ta thấy không những về mặt
không gian có sự mở rộng dần và tập trung ở những đồng bằng ven các con sống lớn của
Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ mà các khu cư trú thường rộng lớn từ hàng nghìn mét vuông cho
đến vài vạn mết vuông và tầng văn hoá dầy, nhất là giai đoạn Đông Sơn, khu cư trú được
mở rộng hơn, có khu rộng tới 250.000 m

2
. Những khu cư trú rộng lớn đó là những xóm
làng định cư trong đó có một dòng họ chính và còn có một số dòng họ khác cùng sinh
sống. Những xóm làng đó dựa trên cơ sở công xã nông thôn (chiềng, chạ, kẻ). Một công
Trang 3
xã bao gồm một số gia đình sống trên cùng một khu vực trong đó quan hệ huyết thống
vẫn được bảo tồn trong công xã bên cạnh quan hệ địa vực (láng giêng).
Nước Văn Lang đứng đầu là Hùng Vương, giúp việc là lạc hầu và lạc tướng. Cả
nước chia thành 15 bộ (vốn là 15 bộ lạc). Đứng đầu mỗi bộ lạc là lạc tướng hay còn gọi là
Phụ đạo, bộ tướng. Như vậy “bộ” một mặt thể hiện sự phân chia cư dân theo sự áp đặt của
“nhà nước”, mặt khác thể hiện đó là đơn vị tu cư tự phát nguyên thuỷ, hay nói cách khác,
đơn vị “bộ” mang tính nửa vời: “vùng - bộ lạc” hoặc “thị tộc, bộ lạc - đơn vị hành chính”.
Dưới bộ lạc là các công xã nông thôn, bấy giờ có tên là kẻ, chiềng, chạ. Đứng đầu kẻ,
chiềng, chạ là các bồ chính (già làng) bên cạnh bồ chính có lẽ còn có một nhóm người
hình thành một tổ chức có chức năng như một hội đồng công xã để tham gia điều hành
công việc của kẻ, chiềng, chạ.
Có thể sơ đồ hoá cơ cấu hành chính thời Hùng Vương như sau:
* Vua Hùng:
+ Lạc Hầu.
+ Lạc Tướng.
* Vua Hùng:
+ 15 bộ.
+ Bộ.
+ Bộ: kỉ, kẻ.
+ Bộ: Chiềng, chạ, đứng đầu là bố chính.
15 bộ như sau:
- Văn Lang (Bạch Hạc - Việt Trì)
- Châu Diên (Sơn Tây - Hà Tây)
- Phúc Lộc (Sơn Tây - Hà Tây)
- Tần Hưng (Hưng Hoá -

- Vũ Định (Thái Nguyên - Cao Bằng)
- Vũ Ninh (Bắc Ninh)
- Lục Hải (Lạng Sơn)
- Ninh Hải (Hưng Yên - Hải Dương - Quảng Ninh)
- Dương Tuyền (Hải Dương)
Trang 4
- Giao Chỉ (Hà Nội - Hưng Yên - Nam Định - Ninh Bình - Hà Nam)
- Cửu Chân (Thanh Hoá)
- Hoài Hoan (Nghệ An)
- Cửu Đức (Hà Tĩnh)
- Việt Thường (Quảng Bình - Quảng Trị)
- Bình Văn
Lực lượng vũ trang thời kỳ này là dân binh.
Đến thời Âu Lạc, cơ cấu hành chính cũng khng có gì thay đổi so với thời kỳ trước,
song thể chế nhà nước hiện hình rõ nét, quyền uy của vua được tăng cường.
- Trong triều An Dương Vương, giúp việc cho vua vẫn có lạc hầu. Lạc hầu là
tướng văn, có thể đồng thời là tướng võ chỉ huy quân đội trấn áp các địa phương không
chịu thuần phục. Lạc hầu thay mặt vua giải quyết công việc trong nước.
- Lạc tướng đứng đầu các bộ, cai quản một đơn vị hành chính địa phương. lạc
tướng phải thu nộp cống phẩm cho nhà vua, thường xuyên truyền mệnh lệnh từ trên
cuống. Khi có chiến tranh, Lạc tướng là thủ lĩnh quân sự địa phưuơng và chịu sự điều
động của vua.
- Bố chính là người đứng đầu công xã nông thôn.
Lực lượng vũ trang đã có quân đội thường trực.
Có thể phác hoạ quá trình và con đường hình thành, tổ chức bộ máy nhà nước Văn
Lang - Âu Lạc như sau:
+ Thủ tĩnh (liên minh bộ lạc) > Vương : Hùng Vương, An Dương Vương ( Văn
Lang, âu Lạc ).
+ Tù Trưởng (Bộ Lạc) > Lạc Tướng ( Bộ ).
+ Tộc Trưởng (Công xã thị tộc) > Bố chính (Công xã nông thôn).

Câu 3: Đặc trưng cơ bản của nền hành chính nước ta thời Lý? Vai trò của Lý
Công Uẩn?
Trả lời:
 Đặc trưng cơ bản của nền hành chính nước ra thời Lý:
Năm 1009 Lý Công Uẩn lên ngôi vua dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La (1010).
Khi dời đô thì trời quang, đẹp, thấy hình con rồng bay lên, Lý Công Uẩn đồi thành Đại La
Trang 5
thành Thăng Long. Việc dời đô đã chững tỏ một tầm nhìn sâu rộng của ông trong việc xây
dựng một sự nghiệp lâu dài, phản ảnh thế đi lên của vương triều và đất nước.
* Hành chính triều Lý nổi bật là công việc xây dựng kinh đô Thăng Long.
Thành Thăng Long có vòng luỹ đất La Thành bao bọc, nương vào thế tự nhiên (hệ thống
sông Tô Lịch). Thành mở ra 4 cửa: Tường Phù (Đông), Quảng Phúc (Tây), Đại Hưng
(Nam) và Diệu Đức (Bắc), có hào bao quanh. Bên trong có hệ thống cung điện: càn
Nguyên, Tập Hiền, Giảng Võ, Long Trì (có đặt lầu chuông ở thềm điện này để xét xử nỗi
oan ức của dân), cùng các cung Thuý Hoa, Long Thụy. Sát với hoàng thành về phía đông
là khu chợ phố dân gian, gồm 61 phường, quang cảnh nhộn nhịp ngày đêm, hệ thống sông
kênh (Nhị Hà, Tô Lịch) giao thông thuận tiện.
* Xây dựng bộ máy chính quyền quân chủ tập trung.
Để khẳng định vương quyền và đề cao lòng tự tôn dân tộc, các vua Lý đã tiến hành
xây dựng một bộ máy chính quyền tập trung theo đúng mô hình nhà Tống (Trung Quốc).
Tuy nhiên, đó mới chỉ là trên danh nghãi, còn trên thực tế, chức năng của nó đơn giản hơn
nhiều.
- Chính quyền triều đình: Trong triều đình, đại thần đứng đầu 2 ban văn võ là tể
tường và các á tướng.
Tể tướng giữ chức Phụ quốc thái phó với danh hiệu “Bình chương quân quốc trọng
sự”. Có người lại mang thêm chức danh trong tam thái (thái sư, phó, bảo), trong tam thiếu
(sư, phó, bảo).
Các á tướng thì giữ chức tả, hứu tham tri chính sự. Dưới tể tướng và á tướng là các
hành khiển được gia thêm danh hiệu “Nhập nội hành khiển đồng trung thư môn hạ bình
chương sự”. Tể tướng, á tướng, hành khiển là các quan chức nằm trong cơ quan gọi là

“mật viện” (bao gồm trung thư sảnh và môn hạ sảnh).
Dưới bộ phận trung khu là 6 bộ, các sảnh viện. Sách lịch sử triều hiến chương loại
chí (quyển II - tr.7) có ghi: “Bên văn thì có thượng thư, tả hữu tham tri, tả hữu gián nghị
và trung thư thị lang. Thuộc quan thì có trung thư thừa, trung thư xã nhân (lại có) bộ thị
lang, tả hữu ty lang trung, thượng thư sảnh viện ngoại lang, đông tây áp môn sứ, tả hữu
phúc tâm, nội thường thị, phủ sĩ sư, điện học sĩ, hàn lâm học sĩ, vệ đại phu, thư gia các
hoả, thức trực lang, thừa tín lang”, “Võ ban thì có đô thống, nguyên soái, tổng quản, khu
Trang 6
mật sứ, khu mật tả hữu sứ, tả hữu kim ngô, thượng tướng mật tả hữu sứ, tả hữu kim ngô,
thượng tướng, đại tướng, đô tướng, tướng quân các vệ, chỉ huy sứ, vũ vệ hảo dầu”.
- Chính quyền địa phương các cấp:
Vừa mới lên ngôi, Lý Thái Tổ chia lại các khu vực hành chính trong nước, đổi 10
đạo thời Đinh - Lê thành các lộ, phủ.
Châu Cổ Pháp hộ Lý đổi thành phủ Thiên Đức
Cố đô Hoa Lư  phủ Trường Yên
Trấn Triều Dương  Châu Vĩnh An
Hoan Châu  Châu Nghệ An
Ái Châu  Phủ Thanh Hoá
Trên địa bàn cả nước có 24 phủ - lộ. Dưới phủ là huyện và dưới huyện là hương.
Cách gọi lộ, phủ, châu không thống nhất là do kiểu thức quản lý và của triều đình
đối với từng vùng dân cư và địa lý có khác nhau. Ở đồng bằng Sông Hồng thì được gọi là
lộ, phủ. ở miền núi thì gọi là châu hay đạo. Vùng đất xa kinh đô như Thanh Hoá và Nghệ
An thì lúc đầu gọi là châu, sau gọi là phủ, còn gọi là trấn, trại  thể hiện tính chất tập
trung của nhà nước chưa thực triệt để.
Đứng đầu phủ, lộ là tri phủ, phán phủ (có tài liệu ghi là thông phán). Mỗi phủ (lộ,
châu) bao gồm nhiều huyện. Người đứng đầu đơn vị hành chính cấp huyện (quận) là
huyện lệnh. Huyện bao gồm nhiều hương, ở kinh đô gọi là giai (nhai), miền núi gọi là
sách hay động. Khi đi xa, vua Lý thường chọn một hoàng tử, thân vương ở lại trấn giữ
trông nom kinh thành, gọi là Lưu thủ kinh sự.
Chính quyền nhà Lý là một chính quyền sùng Phật, và thân dân Nhà vua và quý

tộc đã theo đạo Phật, đề cao tư tưởng từ bi, bác ái. Trong triều, có hệ thống tăng quan,
một số đựôc phong là Quốc sư. Vua quan có mối quan hệ gần gũi với dân chúng, thường
xuyên được tiếp cận dân thường trong các dịp lễ hội. Khi cần thiết người dân có oan ức có
thể đến điện Long Trì đánh chuông, xin được trực tiếp gặp vua. Lý Thánh Tông tuyên bố
“Yêu dân như yêu con”, thường thi hành chính sách khoan dung khi xử kiện.
* Quân đội và pháp luật:
Trang 7
Có nhiều loại quân, ở kinh thành có Cấm quân (Thiên tử quân) bảo vệ triều đình, ở
địa phương có lộ quân hay sương quân, lấy từ các hoàng nam (18 tuổi) ở các lộ, phủ.
Trong làng xã còn có dân binh, hương binh.
Quân đội nhà Lý có quân bộ, quân thuỷ, kỷ luật nghiêm minh, huấn luyện chu đáo.
Thi hành chính sách “ngu binh ư nông” cho quân sĩ luân phiên cày ruộng dẫn đến vừa
đảm bảo sản xuất, vừa đảm bảo động viên quân đội khi cần thiết.
Đối với các châu: Tù trưởng, châu, phủ có quân đội riêng khi cần thiết đều huy
động hết. Ngoài vũ khí truyền thống như giáo, mác còn chế tạo ra máy bắn đá dẫn đến
chính sách xây dựng quân đội mạnh mẽ có khả năng bảo vệ nhà nước trung ương tập
quyền, bảo vệ đất nước.
Nhà Lý là vương triều Việt Nam đầu tiên ban hành luật thành văn. Năm 1024, Lý
Thái Tông sai quan san định luật lệ, biên thành điều khoản, soạn ra Hình thư gồm 3 quyển
(sau đó đã thất truyền) xuống chiếu ban hành trong dân gian. Qua các pháp lệnh, ta biết
được pháp luật nhà Lý đã mang tính chất đẳng cấp phong kiến, bảo vệ hoàng cung, trừng
trị năng tôi mưu phản, cho tầng lớp quý tộc được chuộc tội bằng tiền. Mặt khác pháp luật
đời Lý cũng bảo vệ trật tự xã hội, chống hà làm thuế má ruộng đất, bảo đảm sức kéo bằng
cách trừng phạt nặng tội trộm trâu, giết trâu.
* Xác lập chủ quyền quốc gia dân tộc: Có thể nói rằng đến thời Lý, Việt Nam dã
là một quốc gia dân tộc dựa trên một ý thức cộng đồng chung về nguồn gốc dòng giống,
lịch sử và văn hoá. Năm 1054 Lý Thánh Tông đặt quốc hiệu là Đại Việt - nó tồn tại mãi
cho đến đầu thế kỷ 19. Năm 1175, nhà Tống chính thức công nhận chủ quyền quốc gia
của Đại Việt khi đổi danh hiệu sắc phong từ Giao Chỉ quận vương thành Sơn Nam quốc
vương.

Quốc gia Đại Việt đã được bảo vệ củng cố qua các cuộc kháng chiến chống Tống
(1075 - 1077) và mở rộng lãnh thổ về phía Nam qua scác cuộc chiến tranh với Chămpa
(1069) sáp nhập các châu Địa Lý, Ma Linh, Bồ Chính (Quảng Bình, bắc Quảng Trị ngày
nay). Các vua Lý thể hiện chính sách , đưa nhiều công chúa gả cho các thổ tù miền núi
để vừa ràng buộc họ vừa tạo sự ủng hộ hậu thuẫn.
Trang 8
* Chế độ thi cử, đào tạo quan chức:
Chế độ tuyển và cử vào ngạch quan chức được quy định rất chặt chẽ: lấy con cháu
trong hoàng tộc họ Lý con các quan lại, rồi mới đến dân chúng.
Đặc trưng của chế độ quan chức nhà Lý là có thể mau được chức tước Vậy cơ sở
tạo ra hệ thống quan lại dốt nát, tham ô, tham những, đục khoét, quấy nhiễu nhân dân.
Phong chức cho bên ngoại của vua (Hoàng hậu): An quốc phúc tông, Phúc quốc (tả, hữu).
 Vai trò của Lý Công Uẩn:
Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp (Từ Sơn - Bắc Ninh). Khi sinh ra đã mồ côi,
làm con nuôi của nhà sư Lý Khánh Văn, sau đó đến học ở chùa Lục Tổ của sư Vạn Hạnh.
Lớn lên được làm quan nhà Lê ở Hoa Lư. Lúc đầu được cử chỉ huy quân điện tiền, thăng
dần lên chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Lý Công Uẩn là người có học, có đức lại
biết sử sự đúng nên rất được triều thần nhà Tiền Lê quý trọng. Khi triều Lê chính sự đổ
nát, lòng người chán nản. Lê Long Đình chết, con trai còn nhỏ nên chưa làm vua được, cả
triều đình tôn Lý Công Uẩn lên làm vua (1009). Năm 1010 đặt niên hiệu là Thuận Thiên
thứ nhất, xuống lệnh đại xá cho thiên hạ.
Quyết định quan trọng đầu tiên của ông là dời đô từ Hoa Lư - một nơi chật hẹp,
kinh tế nông thương còn thấp kém, giao thông vận tải gặp nhiều khó khăn, vị trí giao
thông của sông Đáy đẫ giảm sút “không đủ làm chỗ ở của đế vương, muốn dời đi nơi
khác”. Về Đại La, nhà vua soạn Chiếu dời đo trong đó có đoạn viết: “Chỉ vì muốn đóng
đô ở trung tâm mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu trên vâng mệnh trời,
dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục
phồn thịnh được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam Bắc, Đông, Tây, lại tiện
hướng nhìn sông, tựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu
cảnh khốn khổ, ngập lụt, muôn vật rất mựa phong phú, tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta chỉ

nơi này là thắng địa. Thật là chốn hội tụ trọng yếu của 4 phương đất nước. Cũng là nơi
kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Tháng 8-1010 Lý Công Uẩn từ Hoa Lư ra Đại
La. Thuyền đõ ở dưới thành thấy “có rồng vàng hiện lên thuyền ngự” nhân đó đổi tên là
thành Thăng Long.
Lý Công Uẩn tổ chức công trường lớn xây thành Thăng Long. Thăng Long thời Lý
được chia thành 2 khư vực riêng biệt, có 2 vòng thành bao bọc.
Trang 9
Lý Công Uẩn chỉnh đốn lại triều chính, cai trị đất nước sắp xếp lại các đơn vị hành
chính, ban chiếu miễn thuế nặng nề 3 năm liên tục để dân có sức gia tăng sản xuất, ổn
định đời sống. Ra chiếu thả tù nhân không phải mắc tội lớn, cấp cho quần áo, lương thảo
cần thiết cho họ có điều kiện quay trở vè cộng đồng sản xuất của cải bảo đảm đời sống.
Lý Công Uẩn đặc biệt coi trọng chính sách tiết kiệm, bỏ các trò chơi ở ngày khánh tiết, bỏ
yến tiệc, lễ hội tốn kém.
Nhờ những chính sách đúng đắn mà xã hội ngày càng ổn định, đời sống nhân dân
ngày càng được cải thiện.
Câu 4: Phân tích những biến chuyển cơ bản của các chính sách hành chính
thời Lý?
Trả lời:
Năm 1009 Lý Công Uẩn lên ngôi vua, 1010 Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa
Lư về thành Đại La và đổi tên là thành Thăng Long với mục đích “đóng nơi trung tâm,
mưu toan nghiệp lớn, tính kế lâu dài cho con cháu đời sau” phản ánh yêu cầu phát triển
mới của quốc gia độc lập, chúng tỏ khả năng lòng tin và quyết tâm giữ vững nền độc lập
của cả dân tộc.
Năm 1054 nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt - lúc đó đất còn hẹp, dân còn thưa
nhưng là một nước độc lập hoàn toàn và có đủ nsức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Tên nước cũng thể hiện một niềm tự tôn và ý thức bình đẳng dân tộc sâu sắc.
Nhà Lý đã tiến hành hàng loạt các biện pháp nhằm phát triển kinh tế, văn hoá của
đất nước, thi hành nhiều chính sách nhằm củng cố quyền lực của nhà nước tập quyền,
đảm bảo quyền lợi của giai cấp thống trị, nhưng cũng chăm lo đến sự phát triển kinh tế.
- Tổ chức bộ máy nhà nước:

Bộ máy nhà nước thời Lý được thiết lập từ trung ương đến địa phưuơng và tập
trung quyền hành vào tay quan chức: phẩm trật các hàng quan văn võ đều có 9 bậc.
Những chức quan cao cấp trong triều đình được chia làm 2 ngạch: ngạch văn, nghạch võ.
Các đại thần đứng đầu nghạch văn thì có chức tham thái (sư, phó, bảo) và tham thiếu,
nghạch võ có chức thái uý, thiếu uý và một số chứuc vị khác. Dưới hàng quan văn thì có
chức Thượng thư đứng đầu các bộ, ngoài ra còn có các chức khác: tả và hữu tham tri, tả
và hữu giám nghị, trung thu thị lang, bộ nhị lang tả và hữu ty lang trung, tả và hữu phúc
Trang 10
tâm. Bên cạnh đó còn có các điện học sĩ, hàn lâm điện học sĩ được sắp xếp một cách đẩy
đủ, chỉ tiết để đảm trách việc cai trị hành chính. Quan đứng đầu cao nhất là phụ quốc thái
uý giúp vua coi các công việc đại quan trọng trong các nội quan.
Quan võ ở triều đình có các chức: đô thống, nguyên suý, tống quan, khu mật sứ, tả
và hữu kim: ngô, thượng tướng, đại tướng, đô tướng, tướng quân các vệ, chỉ huy sứ
Chức quan nắm quyền binh cao nhất trong triều coi như tể tưởng, được gọi là tướng công
thời Lý Thái Tổ, Phụ quốc thái uý thời Thái Tông, Bình chương quân quốc trọng sự thời
Nhân Tông
Trong việc phân chia khu vực hành chính 10 đạo dưới thời Đinh - Lê được đổi
thành 24 lộ. Dưới lộ là phủ, huyện và hương, giáp, thôn. ở miền núi chia thành châu, trại.
Sắp xếp lại đơn vị hành chính do đó xây dựng nhà nước tập trung quyền lức về triều
đình: vua thay trời hành đạo, định ra lễ nghi triều chính, phép tắc trong cả nước  đề cao
vai trò, uy quyền của vua.
- Nhà nước chăm lo mở mang học hành thi cử. Năm 1070 dựng Văn Miếu và mở
Quốc tử giám ở kinh đô.
Lấy con cháu họ Lý vào các ngạch quan chức. Đặc trưng thời này là có thể mua
được chức quan.
Đến triều Lý Nhân Tông chế độ thi cứ được tổ chức có quy củ. Năm 1089 cẩi cách
hành chính được thể hiện ở chỗ: phong vương cho con cháu trong hoàng tộc để cử đi quản
lý hành chính địa phương, kết hợp với những người có công lao.
- Đặc biệt coi trọng chính sách quân đội, coi đó là vấn đề then chốt để bảo vệ độc
lập chủ quyền của đấ nước  tổ chức rất chặt chẽ, có quy mô. Bao gồm quân Cấm vệ

(thân quân, cấm quân) là quân đội thường trực ở triều đình, có nhiệm vụ bảo vệ kinh đo
 đội quân tinh nhuệ, được lựa chọn cẩn thận, huấn luyện chua đáo và quân các lộ
(sương quân hay gọi là chính binh, phiên binh) là đội quân địa phương làm nhiệm vụ canh
phòng và bảo vệ các lộ, phủ, châu. Đặt ra nghĩa vụ binh dịch với chế độ đăng ký “ngụ
binh ư nông”  cho phép xây dựng một lực lượng quân sự hùng hậu bao gồm một số
quân tại ngũ và thanh niên quân dịch, có thể huy động nhanh chóng bất cứ khi nào. Ngoài
ra, các vương hầu và tù trưởng thiểu số còn có lực lượng vũ trang riêng. Số quân này
Trang 11
không nhiều lắm và khi cần thiết chính quyền trung ương có thể điều động và đặt dưới sự
kiểm soát của mình.
Quân đội gồm bộ binh, thuỷ binh, kỵ binh, tượng binh. Ngoài các vũ khí truyền
thống được trang bị cho quân đội: giáo, mác, cung, nỏ, khiên, còn có máy bắn đá.
- Chính sách quản lý kinh tế:
Vua nhà Lý ban chiếu miễn thuế nặng nề 3 năm liên tục để dân có sức tăng gia sản
xuất, ổn định đời sống. Ra chiếu thả tù nhân không phải mắc tội lớn, cấp cho quần áo,
lương thảo cần thiết cho họ có điều kiện quay trở về cộng đồng. Giai đoạn đầu nhà Lý đặc
biệt coi trọng chính sách tiết kiệm, bỏ các trò chơi ở ngày khánh tiết, bỏ yến tiệc, lễ hội
tốn kém. Bắt đầu sử dụng thưởng công bằng ruộng đất, mở đầu là chính sách Các vua
Lý đều coi trọng chính sách phát triển nông nghiệp, năm nào cũng làm lễ cày tịch điền để
dân chúng hăng hái thi đua sản xuất, khuyến khích việc khai khẩn đất hoang, đắp đê, làm
thuỷ lợi, phát triển nông nghiệp .
Năm 1069 Lý Thánh Tông đem quân đi chinh phạt Chiêm Thành đế trấn an bbờ
cõi, bắt vua Chiêm Thành cống nộp. Triều đình - ỷ Lan phu nhân thay vua thực hiện cứu
đói cho dân, mở quốc khố phát chẩn cho dân. Thay vua thực hiện nhiều chính sách táo
bạo đúng đắn do đó đẩy lùi đói kém, giặc giã, được lòng dân. Khi vua trở vể ỷ Lan luôn
nhắc nhở vua coi trọng chính sách phát triển nông nghiệp, trừng phạt kẻ giết hại trâu bò
để bảo tồn sức sản xuất.
Câu 5: Đặc trưng của nền hành chính nước ta thế kỷ X? Đánh giá vai trò của
Lê Đại Hành hoàng đế?
Trả lời:

 Đặc trưng:
Thế kỷ X là một cái mốc quan trọng trong lịch sử Việt nam, nó khép lại hơn 10 thế
kỷ Bắc thuộc và mở đầu kỷ nguyên độc lập dân tộc. Nhà nước dân tộc và độc lập Việt
Nam đã trở thành nền tảng ban đầu của nhà nước quan liêu Lý Trần, Lê sơ sau này và các
nhà nước sau bổ sung hoàn thiện mô hình của nó để củng cố nền hành chính để nhà nước
phong kiến quản lý xã hội.
Năm 905, cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ hoàn toàn thắng lợi, chính quyền
thống trị của nhà Đường bị lật đổ. Nhà Đường buộc phải phong Khúc Thừa Dụ làm Tĩnh
Trang 12
hải quân tiết độ sứ rồi tiếp đó ban thêm chức Đồng bình chương sự với mong muốn xem
họ Khúc cũng là quan chức của mình. Nhưng Khúc Thừa Dụ đã không châp nhận ý tưởng
đó, quyết định củng cố những thành quả mà cuộc khởi nghĩa đã giành được.
- Khi bắt tay vào xây dựng bộ máy nhà nước ở thế kỷ X, những người cầm quyền
đã đứng trước một thể chế chính trị phát triển cao độ và hoàn chỉnh, đó là các triều đại
phong kiến phương Bắc. Vì vậy về phương diện thiết chế họ đã tiếp thu ít nhiều cách tổ
chức chính quyền đô hộ của nhà Đường và mô phỏng quan chế của nhà Tống.
+ Thời kỳ đầu họ Khúc tuy vẫn giữ chức Tiết độ sứ là chức đứng đầu An Anm đo
hộ phủ đời Đường, song đối với tổ chức chính quyền địa phương đã thi hành nhiều cải
cách đáng kể.
Về hình thức: Khúc Thừa Dụ vẫn giữ nguyên cơ cấu tổ chức trong bộ máy hành
chính song thay người Việt vào giữ chức vụ trong bộ máy hành chính cho người Trung
Quốc. Khi Khúc Thừa Dụ chết, con là Khúc Hạo lên thay đã chia lại các đơn vị hành
chính nhằm xây dựng một chính quyền độc lập thống nhất tách khỏi phạm vi thế lực của
chính quyền phong kiến trung ương Trung Quốc. Cả nước chia làm 5 cấp hành chính: lộ,
phủ, châu, giáp, xã trong đó đổi hương thành giáp. Việc đổi hương thành giáp là cải cách
quan trọng nhất của học Khúc. Ngoài những hương cũ đổi thành giáp, còn đặt thêm nhiều
giáp mới, tất cả có 314 giáp. So với 159 hương đời Đường thì 314 giáp của chính quyền
họ Khúc chứng tỏ một bước phát triển đáng kể của chính quyền độc lập vừa giành được.
Đơn vị hành chính cấp thấp nhất là xã có chức lệnh trưởng, tá lệnh trưởng.
 Khúc Hạo là người đầu tiên xây dựng được nền hành chính nhà nước tự chủ của

nước ta từ trung ương đến địa phương.
+ Sửa đổi lại chế độ điền, tô (chế độ ruộng đất), sủa đổi chính sách thuế khoá nặng
nề trước đây của nhà Đường ban bố áp đặt, thay vào đó là chính sách bình quân thuế
ruộng. Lập sổ hộ khẩu kê rõ quê quán để quản lý nhân sự.
- Năm 930 nhà Nam hán - một trong 10 nước cát cứ của Trung Quốc đã chiếm lại
Âu Lạc và cứ thứ sử cai trị. Chính quyền họ Khúc chấm dứt. Song năm 931, Dương Đình
Nghệ là một tướng của Khúc Hạo đã lãnh đạo nhân dân đánh bại quân nam Hán và giành
lại độc lập. Ông vẫn xưng là tiết độ sứ, thủ phủ vẫn đóng ở thành Đại La (6 năm), tiếp tục
Trang 13
công cuộc tự chủ của họ Khúc, lo củng cố chính quyền vừa mới giành lại được, phát triển
dân tộc.
- Đầu năm 937, Dương Đình Nghệ bị viên thuộc tướng phản bội là Kiều Công Tiễn
ám hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Ngô Quyền - con rể đã từ chấu ái đem quân ra trừng phạt
Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn cầu cứu Nam Hán  vua Nam hán tiến công xâm lược
Âu Lạc. Được sự ủng hộ của nhân dân Ngô Quyền đã giết chết Kiều Công Tiễn và chuẩn
bị lực lượng để chiến đấu chống quân xâm lược.
Chiến thắng Bạch Đằng 938 là cái mốc quan trọng chấm dứt hoàn toàn ách đô hộ
hơn 1000 năm Bắc thuộc, mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập lâu dài của đất
nước.
Năm 939 Ngô Quyền xưng vương đóng đô ở Cổ Loa và xây dựng một chính quyền
trung ương tập quyền, bãi bỏ chế độ tiết độ sứ. ở địa phương các châu, huyện được giữ
nguyên. Các thứ sử như Đinh Công Trứ tiếp tục cai quản châu của mình. Giáp, làng vẫn
là những đơn vị hành chính cơ sở. Bên cạnh các xóm cổ truyền có một số làng mới hình
thành và một vài trang trại.
Tuy đã trải qua hơn 30 năm độc lập với 2 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm,
nhưng tàn dư của chế độ đô hộ cũ vẫn còn nhiều, tình hình xã hội còn phức tạp. Sự thành
lập của nhà Ngô với người đứng đầu là Ngô Quyền chưa đủ điều kiện đề giữ vững sự ổn
định lâu dài.
- Năm 944 Ngô Quyền chết. Dương Tam Khoa - em vợ cướp ngôi. Lợi dụng sự
suy yếu của chính quyền trung ương, các thế lực địa phương nổi dậy cát cứ gây ra loạn 12

sứ quân. Trước tình hình đó, năn 968 Đinh Bộ Lĩnh đã đánh bại các sứ quân, thống nhất
đất nước lập ra nhà Đinh.
- Đinh Bộ Lĩnh xưng hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, dựng đô mới ở Hoa
Lư.
+ Về tổ chức nhà nước: Đinh Tiên Hoàng đã bắt đầu định giai phẩm cho các quan
văn võ và tăng đạo. Trong triều đình, có một số quan văn, võ như: sĩ sư, tướng quân, nha
hiệu, phó mã đô uý, và các chức tăng quan: đại sứ, lục đạo sĩ, sùng chân uý nghi Các
hoàng tử được phong vương. Nhà nước lấy đạo Phật làm quốc giáo nên nghạch tăng quan
Trang 14
có vai trò lớn trong việc tham dự triều chính. Đại sư Ngô Chân Lưu - người đứng đầu
tăng quan có quyền hành như tể tướng, là một cố vấn cho nhà vua.
Ở địa phương, nhà Đinh chia nước ra làm 10 đạo.
+ Về tổ chức quân đội: phiên chế quân đội thành 10 đạo, mỗi đạo 10 quân, mỗi
quân 10 lữ, mỗi lữ 10 tốt, mỗi tốt 10 ngũ, mỗi ngũ 10 người. Chỉ huy quân đội là Thập
đạo tướng quân.
Trước tình hình đất nước mới thống nhất, nguy cơ cát cứ chưa bị loại trừ hoàn
toàn, nhà Đinh đã coi mỗi đơn vị hành chính là một đơn vị quân sự, kết hợp chặt chẽ hoạt
động quản lý hành chính với chỉ huy quân sự trong hoạt động và tổ chức bộ máy nhà
nước.
- Năm 979 Đinh Tiên Hoàng và con trai Đinh Liễ bị ám sát. Nguy cơ cát cứ và nạ
ngoại xâm đồng thời uy hiếp đất nước. Trong tình hình đó quân sĩ và một số quan lại suy
tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên làm vua lập ra nhà Tiền Lê. Lê Hoàn vẫn đóng đô
ở Hoa Lư.
+ Ở trung ương, nhà Tiền Lê mô phỏng quan chế của nhà Tống, triều đình trung
ương dio vua đứng đầu, nắm mọi quyền hành về dân sự cũng như quân sự. Dưới vua là
quan văn, võ, trong đó cao nhấ là Định quốc công, ngoại giáp, thập đạo tướng quân, về
sau có thêm các chức: Thái sư, đại tổng quản, thái uý, đô hộ phủ sĩ sư, tả và hữu điện tiền
chỉ huy sứ, chi hậu
+ Hệ thống đơn vị hành chính và chính quyền địa phương cũng được tổ chức đầy
đủ. Ban đầu cả nước chia thành 10 đạo. Năm 1002 Lê Hoàn đổi 10 đạo thành lộ, dưới có

phủ, châu. Các lộ. châu đều có quản giáp, thứ sử, trấn tướng trông coi. Nhằm bảo vệ
quyền lực của dòng họ, nhà vua đã cử các hoàng tử trông coi các châu về tất cả các mặt.
Trừ các nhà sư, quan lại trong triều hầu hết là võ tướng.
+ Về quân đội: Năm 1002 Lê Hoàn định quân ngũ, phân tướng hiệu làm 2 ban văn
võ, tổ chức quân cấm vệ gồm 3000 người, trên trán có thích 3 chữ “thiên tử quân”. Bên
cạnh đó còn có một số đạo quân tứ sương, canh giữ các cổng thành.
+ Chính sách để phát triển kinh tế: Đào các sông ngòi để dẫn thuỷ nhập điền 
phát triển giao thông. Thực hiện chính sách tịch điền để thu thuế cho quốc khố. Hang năm
vua vó làm lễ cấy tịch điền, thực hiện chính sách trọng nông.
Trang 15
+ Chính sách giáo dục: Trọng đãi và sử dụng những người có học rộng tài cao, đặc
biệt là tài thơ phú.
+ Chính sách đối ngoại: Dùng chính sách mềm dẻo, khôn khéo nhưng kiên quyết
để bảo vệ độc lập đất nước. Về phía Nam, chỉ huy quân chinh phạt Chiêm Thanh, bắt vua
Chiêm quy phục, triều cống để giữ yên bề cõi phương Nam.
Các vua đều xuất thân là những tướng lĩnh quen trận mạc, là tổng chỉ huy tối cao
quân đội, nắm giữ mọi quyền hành. Hệ thống quan lại phần lớn là quan võ. Quân đội thời
kỳ này đông và mạnh. Thời đinh có tới 1 triệu người, thời Lê Hoàn có tới 3000 cấm
quân, trán khắc chữ “thiên tử quân”. Vũ khí có cung, nỏ, mộc bài, giáo mác. Lực lượng
thuyền chiến mạnh, đều dùng quân đội trấn áp các vụ phản loạn trong nước. Dưới chế độ
võ trị, luật pháp thời Đinh - Tiền Lê còn nghiêm khắc và tuỳ tiện dựa theo ý muốn của
nhà vua  xây dựng bộ máy triều nghi của mình theo mô hình nhà Tống.
- Các vua Đinh - Tiền Lê khi lên ngôi hoàng đế đều đã cố gắng thực thi quyền sở
hữu ruộng đất nông nghiệp, vừa để khẳng định quyền lực, vừa để nắm lấy thần dân, thu tô
thuế, bắt lính. Hàng năm mùa xuân nhà vua đích thân làm lễ tịch điền, đi vài đường cày
để nêu gương. Phong cấp đất đai cho các hoàng tử, quý tộc và quan lại. Bắt đầu thi hành
chính sách trọng nông, khuyến khích sản xuất như đào vét các sông kênh. Bên cạnh đó
chú ý phát triển một số ngành nghề thủ công nghiệp để phục vụ vua quan và quân đội,
nhất là kinh đô Hoa Lư.
Cùng với việc xây dựng một chính quyền nhà nước có chủ quyền, ở Đại Cồ Việt

nửa sau thế lỷ X cũng đã manh nha những mầm mống của một nền văn hoá mang tính
dân tộc.
- Thế kỷ này suy tôn Phật giáo là Quốc giáo, các nhà sư được sử dụng như những
cố vấn cung đình và những nhà ngoại giao đắc lực của nhà vua.
Các vương triều Ngô - Đinh - Tiền Lê có thể coi như một thời kỳ lịch sử quá độ
ngoại thuộc qua tự chủ đến độc lập. Những thập kỷ bản lề đó đã bước đầu thực hiện được
sự nghiệp khôi phục độc lập, thống nhất quốc gia, xây dựng chính quyền và đặt nền móng
cho một nền văn hoá dân tộc. Sự nghiệp đó sẽ được củng cố và phát triển lên một tầm cao
mới trong những thế kỷ tiếp theo.
Trang 16
 Vai trò của Lê Đại Hành hoàng đế:
Lê Hoàn là người Xuân Lập (Thọ Xuân - Thanh Hoá) quê gốc ở Thanh Liêm (Hà
Nội), cha, mẹ chết sớm, làm con nuôi một viên quan sát họ Lê. Lớn lên, ông theo giúp
Đinh Liễn, lập nhiều công trạng, khi nhà Đinh thành lập, ông được phong chức Thập đạo
tướng quân.
Năm 979 Đỗ Thích mưu phản giết Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn vì hiềm khích.
Nội bộ triều đình lục đục, vua mới còn nhỏ. Được tin đó, nhà Tống vội sai các tướng Hầu
Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đem quân sang xâm lược nước ta.
Mùa thu 980 viên quan coi Lạng Châu cho người về kinh cấp báo tin quân Tống
chuẩn bị đánh xuống nước ta. Dương Thái hậu giao cho phụ chính Lê Hoàn tổ chức cuộc
kháng chiến. Lê Hoàn xưng là phó vương để chỉ đạo quân chống quân xâm lược. Cử
Phạm Cự Lượng làm đại tướng kéo quân trấn giữa vùng phía Bắc. Tiếp đó được quân sĩ
và tướng quân ủng hội lên làm vua. Thái hậu Dương Vân Nga đã tự tay trao áo long bào
cho Lê Hoàn. Lê Hoàn lên ngôi xưng là Lê Đại Hành hoàng đế, lấy niên hiệu là Thiên
Phúc, cùng các tướng huy động quân sĩ cùng nhân dân khẩn trương chuẩn bị chống giặc.
Theo kế của Ngô Quyền trước đây, ông sai quân đóng cọc nhọn ở vùng cửa sông Bạch
Đằng để ngăn thuỷ quân của giặc. Khi thuỷ quân của giặc đến vùng vne biển gần cửa
sông Bạch Đằng thì Lê Hoàn cử quân tiến ra chống cự kịch liệt. Không đánh nổi quân ta,
thuỷ quân của giặc buộc phải rút lui. Quân Hầu Nhân Bảo đánh xuống theo đường sông
Chi Lăng cũng bị phục binh đánh tơi bời, giết chết Hầu Nhân Bảo, Trần Khâm Tộ được

tin Bảo chết hoảng sợ, ra lệnh rút quân chạy về nước nhưng không kịp. Quân giặc đã bị
thua  Cuộc kháng chiến chống Tống thắng lới, một lần nữa nhân dân ta đã bằng sức
chiến đấu anh dũng của mình, khẳng định quyền làm chủ đất nước bảo vệ vững chắc
thành quả đấu tranh và xây dựng tổ tiên mình. Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã giáng
một đòn nặng nề vào tư tưởng bành trướng của vua tôi nhà Tống. Tên tuổi của Lê Hoàn
và quân tướng cũng như Dương Thái hậu mãi khắc sâu vào lịch sử kháng chiến chống
ngoại xâm bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta.
- Sau khi đánh bại quân giặc, Lê Hoàn bắt tay vào việc ổn định tình hình trong
nước. Tổ chức lại chính quyền, mở mang đường sá, khuyến khích nhân dân sản xuất, lo
chống lại các cuộc nổi dậy của nhân dân ở các vùng xa, đặc biệt là các châu phía Nam.
Trang 17
- Năm 989 quản giáp Dương Tiến Lộc được cử đi thu thuế ở 2 châu ái, Hoan đã
nhân tố liên kết với một số thủ lĩnh địa phương giữ châu chống lại triều đình. Lê Hoàn
phải cầm quân đi đánh dẹp.
- Năm 999, 1001 Lê Hoàn lại phải đem quân đánh dẹp các cuộc nổi dậy của người
Hà Đông, Cử Long. Tình hình tạm yên trong một thời gian.
- Năm 980 sau khi lên ngôi, Lê Hoàn đã cử Từ Mục và Ngô Tử Canh sang Chăm
pa đặt quan hệ hoà hiếu, nhằm yên mặt Nam để chống giặc Tống. Vua Chăm pa cậy thế
thùng mạnh bắt giữ sứ thần.
- Năm 982 khi đã đánh bại quân Tống, Lê Hoàn quyết định đem quân đánh
Chămpa, tiến thẳng kinh đô, phá huỷ thành trì rồi rút quân về. Quan hệ Việt - Chămpa
tạm yên.
Sau khi chiến thắng giặc Tống, Lê Hoàn dùng chính sách đối ngoại khôn khéo,
mềm dẻo để giữ yên bờ cõi, bảo vệ nền độc lập tự chủ của đất nước.
Bên cạnh đó, Lê Hoàn sử dụng một số vùng đã tịch thu được của các sứ quân để
làm ruộng tịch điền, phục vụ nghi lễ khuyến khích sản xuất nông nghiệp và lấy thóc lúa
đưa vào kho nhà nước  sản xuất nông nghiệp ngày càng ổn định và phát triển, đời sống
nhân dân được đảm bảo.
 Lê Đại Hành có vai trò to lớn trong việc mở đầu một triều đại mới - Nhà Tiền
Lê đánh thắng quân xâm lăng bảo vệ độc lập của tổ quốc, có những chính sách đúng đắn

để phát triển kinh tế đất nước, đưa đời sống nhân dân vào ổn đinh.
Câu 6: Vấn đề cơ bản về cương vực địa giới hành chính và các cấp hành chính
ở nước ta trong 10 thế kỷ Bắc thuộc?
Trả lời:
1) Chính quyền đô hộ 179 TCN đến 39
Sau khi chiếm được nước Âu Lạc, Triệu Đà sáp nhập đất Âu Lạc vào Nam Việt và
chia ra làm 2 quận Giao Chỉ (Bắc Bộ) và Cửu Chân (Bắc Trung Bộ). ở mỗi quận có một
viên cai trị gọi là quan sứ hay điền sứ với tư cách là sứ giả của nhà vua.
Các lạc tướng đều dưới quyền kiểm soát của hai viên quan sứ. Bên cạnh các viên
quan sứ còn có 1 viên chức quan võ (tả tướng) và một số quân đồn trú đề kiềm chế các lạc
Trang 18
tướng. Bên dưới quận chưa hề có một tổ chức hành chính nào khác. Những luật lệ, phong
tục tập quán cũ của Âu Lạc dưới thời Triệu tạm thời được duy trù.
- Từ 111 tr.CN sau khi chinh phục được Nam Việt, nhà Tây Hán đã thay nàh Triệu
cai trị Âu Lạc. Nhà Hán chia vùng đất mới chiếm ra làm 9 quận là Đạm Nhic, Chu Nhai
(thuộc đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô (thuộc Quảng Đông,
Quảng Tây), Giao Chỉ (Bắc bộ Việt Nam), Cửu Chân (vùng Thanh - Nghệ Tĩnh), Nhật
Nam (Quảng Bình  Quảng Nam). Năm 106 nhà Tây Hán đặt châu Giao Chỉ để thống
suất 7 quận miền lục địa. Trụ sở của châu đặt tại quận Giao Chỉ -là quận lớn nhất, tại đất
Mê Linh. Đứng đầu châu là một viên thứ sử phụ trách công việc của các quận. Mỗi quận
có 1 viên thái thú và 1 viên đô uý (cai quản hành chính - dân sự, quân sự). Dưới quận là
huyện từ các bộ phận chuyển thành. Các lạc tướng vẫn nắm quyền cai trị và vẫn được thế
tập nhưng đổi gọi là huyện lệnh.
Tuy nhà Hán đã áp đặt được bộ máy ở cấp châu, quận nhưng ở cấp huyện và cấp
cơ sở, bộ máy quản lý hành chính cổ truyền của người Việt hầu như vẫn được giữ
nguyên.
Từ 23 - 220 nhà Đông Hán thay thế nhà Tây Hán cai trị Âu Lạc và tổ chức bộ máy đô hộ
hoàn thiện hơn. Đứng đầu châu Giao Chỉ là chức châu mục, đến năm 42 đổi lại thành thứ
sử. Thứ sử phải luôn trụ tại sử làm việc và cử người thay mặt mình về triều đình báo cáo.
Giúp việc châu mục có các lại viên gọi là tòng sự sử gồm 7 người: công tào tòng phụ

trách việc tuyển bổ quan lại, tào tòng sự ở cấp quận, ngoài viên thái thú còn đặt thêm
chức quận thừa giúp việc và thay thế khi thái thú vắng mặt. Ở nhiều quận biên giới đặt 1
viên thừa (ngạch quan văn) làm trưởng sử giúp thái thú. Đến 38, các quận biên giới bỏ
chức thái thú và quận thừa, tất cả quyền hành tập trung vào thừa trưởng sử. Thái thú nắm
cả quyền quản lý hành chính xét xử và chỉ huy quân sự. Bộ máy hành chính cấp quận chia
thành các tào, đứng đầu là các duyên sử, tuỳ từng quận mà có thế đặt thêm chức quan
diêm quan, thiết quan (đúc chế sắt), công quan (thu thuế thủ công nghiệp)
Các huyện thuộc quận, đứng đầu là huyện lệnh, huyện trưởng do các lạc tướng
nắm giữ, ăn lương nhà nước. Dưới huyện lệnh là 1 viên thừa (quan văn) và 2 viên uý
(quan võ) giúp việc. Bộ máy hành chính cấp huyện cũng chia thành các tào chuyên trách.
Địa bàn nước ta khi ấy nằm trên 3 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.
Trang 19
+ Quận Giao Chỉ chia ra 10 huyện: Liên Lâu, An Định, Câu Lâu, Mê Linh, Khúc
Dương, Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Long Biên, Chu Diên. Theo Đào Duy Anh: “Quận Giao
Chỉ ở đời Hán là đất Bắc Bộ ngày nay, trừ miền Tây Bắc còn ở ngoài phạm vi thống trị
của nhà Hán, 1 góc tây nam tỉnh Ninh Bình bây giờ là địa đầu của quận Cửu Chân và một
dải bờ biển từ Thái Bình  Kim Sơn (Ninh Bình) bấy giờ chưa được bồi đắp, lại phải
thêm, vào đấy một vùng về phía tây nam Quảng Tây”.
+ Quận Cửu Chân chia làm 7 huyện: Tư Phố, Cư Long, Đô Lung, Dư Phát, Hàm
Hoan, Vô Thiết, Vô Biên.
+ Quận Nhật Nam gồm 5 huyện: Chu Ngô, Tỷ ảnh, Lê Dung, Tây Quyển, Tương
Lâm.
2) Hành chính thời tự chủ Hai Bà Trưng (40 - 43)
Nhân dân châu Giao chống lại ách thống trị của nhà Đông Hán, bắt đầu từ cuộc
khởi nghĩa to lớn của nhân dân Giao Chỉ cùng với quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố
dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng và giành được thắng lợi  Trưng Trắc lên làm vua
đóng đô tại Mê Linh. Trên thực tế thì chính quyền Hai Bà Trưng chỉ cai quản được 2 quận
Giao Chỉ, Cửu Chân là địa vực Âu Lạc cũ thời các vua Hùng, vua Thục. Trưng Vương xá
thuế 2 năm liền cho nhân dân. Song vì tồn tại trong một thời gian ngắn, chính quyền Hai
Bà Trưng chưa thể xây dựng một hệ thống chíng quyền quy mô, hoàn thiện. Các lạc

tướng vẫn cai trị các bộ  chính quyền độc lập đầu tiên sau hơn 2 thế kỷ Bắc thuộc.
3) Từ 43 - 220
Sau khi lật đổ chính quyền tự chủ của Hai Bà Trưng, nhà Hán thiết lập lại chính
quyền đô hộ ở nước ta chặt chẽ hơn, loại bỏ những tổ chức cũ của nhà bản xứ do người
bản xứ cai quản ở cấp huyện, thay vào đó là người Trung Quốc. Các chức thứ sử, thái thú
vẫn được duy trì. Ở mỗi huyện có huyện lệnh đứng đầu là người Hán. Chế độc lạc tướng
của người Việt bị bãi bỏ. Các viên chức cao cấp trong bộ máy chính quyền đô hộ hầu hết
là người Trung Quốc.
Mã Viện chia lại đơn vị hành chính huyện, chia nhỏ huyện to, áp nhập huyện nhỉ.
Huyện Tây Vu là đất cư của Tây Vu Vương, con cháu An Dương Vương đã bị chia lám 3
huyện: Tây Vu, Phong Khê, Vọng Hải. Song song với cải tổ hành chính, Mã Viện cho
xây đắp thành luỹ, tăng số quân đồn trú ở các huyện, củng cố mở rộng cứ điểm thống trị.
Trang 20
Quận Giao Chỉ có 12 thành ở 12 huyện, Cửu Chân, Nhật Nam mỗi quận có 5 huyện đều
xây 5 thành. Đến năm 203 Sĩ Nhiếp dâng sớ xin cải Giao Chỉ làm Giao Châu. Vua nhà
Hán thuận cho.
4) Từ 220 - 280
Nhà Hán đổ, cục diện Tam quốc, chính trị loạn lạc dẫn đến chỗ nước ta bị nhà Ngô
đô hộ.
Năm 226 nhà Ngô tách các quận Hợp Phố (thuộc địa phận Quảng Đông - Trung
Quốc), Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thành lập Châu Giao. Chẳng được bao lâu thì bị
bãi bỏ song 264 nhà Ngô lại đặt tên như cũ là Châu Giao, lấy thành Long Biên làm châu
lị. 271 nhà Ngô đặt thêm quận Cửu Đức (được tách từ 1 bộ phận ở nam quận Cửu Chân
tương ứng với huyện Hàm Hoan cũ). Quận Cửu Đức gồm 6 huyện: (thuộc hầu hết 2 tỉnh
Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay), huyện Hàm Hoan mới (Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh
Lưu, Nghĩa Đàn, Quỳ Châu ngày nay), Cửu Đức (Hưng Nguyên, Nam Đàn, Thanh
Chương và 1 phần Đức Thọ), huyện Dương Thành (Nghi Lộc, Nghi Xuân, Việt Thường),
Phù Lĩnh (Can Lộc), Khúc Tư (phần phía nam Hà Tĩnh).
5) Từ 280 - 420
Năm 280 nhà Tần diệt được nhà Ngô, thống nhất Trung Quốc đã mở rộng địa giới

quận Cửu Đức cho đến Hoành Sơn, đặt thêm huyện Nam Lăng và Đô Giao (tương đương
với Nghi Xuân, Hương Sơn, Hương Khê, Thạch Hà - Hà Tĩnh).
6) Từ 420 - 588
Nhà Tần suy sụp, ở Trung Quốc diễn ra cục diện Nam - Bắc triều. Đất nước ta bị
đặt dưới ách đô hộ của Nam triều (các triều Tống, Tề, Lương, Trần).
Năm 470 nhà Tống tách Hợp Phố sáp nhập vào nội địa Trung Quốc. Bản đồ Giao
Châu còn lại trong phạm vi vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay. Vùng Nghệ An, Hà
Tĩnh vẫn gọi là Cửu Đức. 523, nhà Lương đặt thêm ái Châu ở Thanh Hoá, đổi Cửu Đức
thành Đức Châu, đặt thêm 2 châu mới là Lợi Châu và Minh Châu.
Năm 535 đặt thêm châu mới là Hoàng Châu (ven biển Giao Chỉ - Quảng Ninh).
Cùng với thay đổi các đơn vị hành chính là việc tổ chức chặt chẽ hơn bộ máy thống trị
của chính quyền đô hộ. Đứng đầu vẫn là chức thứ sử (châu mục). ở quận vẫn có chức thái
Trang 21
thú và bộ máy quan lại gồm trưởng lại, lục sự, công tào cai quản. Đứng đầu huyện là các
chức huyện lệnh do người Trung Quốc đảm nhiệm.
- Giao Châu được chia làm 8 quận.
+ Giao Chỉ: 14 huyện, 12000 hộ.
Long Biên, Câu Lâu, Vọng Hải, Liên Lâu, Tây Vu, Vũ Nunh, Chu Diện, Khúc
Dương, Ngô Hưng, Bắc Đái, Kê Từ, An Định, Vũ An, Quân Bình.
+Tân Xương: 6 huyện, 3000 hộ
Mê Linh, Gia Hưng, Ngô Định, Phong Sơn, Lâm Tây, Tây Đạo.
+ Vũ Bình: 7 huyện, 3000 hộ
Vũ Ninh, Vũ Hưng, Tiến Sơn, Căn Ninh, Vũ Định, Phú Yên, Phong Khê.
+Cửu Chân: 7 huyện, 3000 hộ
Tư Phố, Di Phong, Trạm Ngô, Kiến Sơ, Thường Lạc, Phù Lạc. Nhà Tấn lập thêm
Tùng Nguyên.
+ Cửu Đức: 8 huyện
Cửu Đức, Hàm Hoan, Nam Lăng, Dương Thành, Phù Linh, Khúc Tư, Đô Hào,
Việt Thường.
+ Nhật Nam: 5 huyện, 600 hộ

Tương Lâm, Lô Dung, Chu Ngô, Tây Quyển, Tỷ ảnh.
- Nhà Lương chia Giao Châu làm nhiều châu mới:
+ Ái châu: trên đất quận Cửu Chân cũ (Thanh Hoá)
+ Đức Châu: trên đất quận Cửu Đức cũ (Nghệ Tĩnh)
+ Lợi Châu: trên đất quận Cửu Đức cũ (Nghệ Tĩnh)
+ Minh Châu; trên đất miền đông bắc Giao Châu cũ (Quảng Ninh)
+ Giao Châu: thu nhỏ trên đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
7) Từ 544 - 602
Năm 542, Lý Bí là một hào trưởng được sự ủng hộ của nhân dân đã lật đổ ách
thống trị của nhà Lương. Năm 544 Lý Bí chính thức lên ngôi hoàng đế, tự xưng là Việt đế
(theo sử Trung Quốc) Nam đế (sử Nam) gọi là Lý Nam Đế. Ông đặt tên nước là Vạn
Xuân và đóng đố ở Hà Nội ngày nay. Bỏ lịch Trung Hoa, đặt hiệu là Thiên Đức, cho đúc
tiền Thiên Đức.
Trang 22
Tổ chức nhà nước còn rất đơn giản. ở triều đình ngoài hoàng đế đứng đầu còn 2
ban văn võ. Tinh Thiều được cử làm tướng văn, Phạm Vu làm tướng võ, Triệu Túc làm
thái phó, Lý Phục Man làm tướng quân coi giữ một miền biên cảnh từ Đỗ Đông đến Ba
Vì. Dân số nước Vạn Xuân ở niên đại 544 có khoảng 1.000.000 người.
8) Từ 589 - 617
Năm 589 nhà Tuỳ đổi Hưng Châu làm Phong Châu, đổi Hoàng Châu làm Ngọc
Châu, Đức Châu làm Hoan Châu, Lợi Châu làm Trí Châu. 603 nhà Tuỳ chinh phục Chau
Giao. Năm 607 nhà Tuỳ bỏ đơn vị hành chính châu, chia Châu Giao thành 6 quận trực
thuộc triều đình trung ương (Lịch sử nhà nước và pháp luật).
Quận Giao Chỉ (gồm 9 huyện), Cửu Chân (7 huyện), Nhật Nam (Nghệ Tĩnh 8
huyện), Tỷ Cảnh (Tỷ ảnh - Chiêm Thành - 4 huyện). Lâm ấp (Thừa Thiên Huế 4 huyện).
 6 quận: 36 huyện thị sở đặt ở Tống Bình - Hà Nội.
9) Từ 618 - 907
Năm 618 nhà Tuỳ đổ, nhà Đường thành lập ở Trung Quốc, thái thú Khâu Hoà (của
nhà Tuỳ) giữ Giao Châu xin thần phục nhà Đường. Từ đó  904 Giao Châu đã bị nhà
Đường đô hộ. Nhà Đường đổi các quận thành châu như cũ. Năm 622 nhà Đường đổi Giao

Châu thành An Nam tổng quản phủ. 679 đặt An Nam đô hộ phủ để cai quản nước ta.
Bấy giờ An Nam đô hội phủ cai quản 12 châu:
+ Giao Châu nay ở đất Hà Nội, Nam Định có 8 huyện: Tống Bình, Nam Định,
Thái Bình, Giao Chỉ, Chu Diên, Long Biên, Bình Đạo, Vũ Bình.
+ Lục Châu: sau là Quảng Yên, Lạng Sơn gồm 3 huyện: Ô Lôi, Hoa Thanh, Ninh
Hải.
+ Phúc Lộc Châu gồm 3 huyện có lẽ ở “miền nam Hà Tĩnh và miền Quy Hợp,
Ngọc Ma ở phía tây Hoành Sơn”.
+ Phong Châu: Gia Ninh, Thừa Hoá, Tân Xương.
+ Thanh Châu: Thanh Tuyền, Lục Thuỷ, la Thiều.
+ Trường Châu có 4 huyện nay thuộc Ninh Bình.
+ Chi Châu (7 huyên): Hàn Thành, Phú Xuyên, Bình Tây, Lạc Quang, Lạc Diêm,
Đa Vân, Tu Long.
Trang 23
+Võ Nga Châu (7 huyện): Võ Nga, Như Mã, Võ Nghĩa, Võ Di, Võ Duyên, Võ
Lao, Lương Sơn.
+ Võ An Châu: Võ An, Lâm Giang.
+ Ái Châu (6 huyện): Cửu Chân, An Thuận, Sùng Bình, Quân Ninh, Nhật Nam,
Trường Lâm.
+ Hoan Châu (4 huyện): Cửu Đức, Phố Dương, Việt Thường, Hoài Nam.
+ Diễn Châu (7 huyện)
Năm 757 đổi làm Trấn Nam đô hộ phủ.
Năm 766 lại đổi làm An Nam đô hộ phủ.
Năm 866 nhà Đường thăng An Nam đô hộ phủ lên làm Tĩnh hải quân tiết độ.
Ngoài ra còn có 41 châu ky my.
Dưới phủ có huyện, dưới huyện có hương, xã. Các hương xã được chia theo số hộ.
Đứng đầu phủ có chức quan đô hộ, lúc đầu được gọi là đại tổng quản, sau gọi là đô đốc.
Từ 679 gọi là đô hộ. Lúc có chiến tranh gọi là kinh lược sứ. Về sau đổi thành tiết độ sứ.
Dưới quyền quan đo hộ (hay tiết độ sứ) ở phủ còn có cả một bộ máy quan lại cai
quản các công việc hành chính, chính trị, quân sự, thu thuế. Các châu đều đặt các chức

thứ sử đứng đầu, trong đó có 1 số thứ sử là người bản địa. Các huyện, hương đều có tổ
chức chính quyền đô hộ của nhà Đường, giúp việc cho phủ đô hộ.
Câu 7: Đặc trưng nền hành chính nước ta thời Trần? Những biến đổi và phát
triển của nền hành chính nước ta thời Trần? Đánh giá ý nghĩa những biến đổi đó?
Trả lời:
1) Nhà Trần thay nhà Lý mở ta một thời kỳ tiếp tục phát triển cao hơn của xã hội
Đại Việt. Chính quyền nhà Trần trong thế kỳ XIII vững vàng, mà năng động, đã tạo râ
một nền thống nhất và ổn định đất nước cho đến giữa thế kỷ XIV. Triều đình Thăng Long
trong thời gian này trước hết là tổ chức chính quyền của dòng họ Trần. Vua Trần tự đề
câo vị trí bản thân, đồng nhất ngôi vua với đất nước.
Năm 1250 Thái Tông “xuống chiếu” cho thiên hạ gọi vua là nâng cao hơn tính
chuyên chế và tập trung của triều đình. Để đảm bảo vững chắc vị trí và khả năng nắm
chính quyền trong tay vua, tránh những vụ tranh ngôi trong nội bộ hoàng tộc, và cũng để
cho vua trẻ điều khiển chính quyền vững vàng, nhà Trần áp dụng chế độ Thái thượng
Trang 24
hoàng. Vua cha chỉ làm việc một số năm rồi truyền cho con, còn bản thân lui về Tức Mặc
(Nam Định) giữ tư cách cố vấn. Quyền hành của Thái thượng hoàng rất lớn không chỉ có
quyền chỉ định người kế vị mà khi cần có thể truất bỏ ngôi vua.
Để củng cố vương quyền, nhất là trong những thời kỳ đầu, nhà Trần đã thực hiện
một nền chuyên chính dân chủ dòng họ. Tầng lớp quý tộc tông thất nắm độc quyền lãnh
đạo quốc gia. Các chức vụ chủ chốt trong triều đình (nhất là về võ quan, như các tướng
lĩnh trong cuộc kháng chiến chống Nguyên) đều do các người họ hàng thân cận với nhà
vua nắm giữ. Để đề phòng nạn ngoại thích, nhà Trần thực hiện chế độ hôn nhân đồng tộc.
Nhiều nhà vua và vương hầu tôn thất nhà Trần đã lấy những người trong họ hàng đôi khi
khá gần gũi (Trần Thái Tông lấy chị dâu, Trần Thủ độ lấy chị họ ). Mặt khác, các vua
Trần cũng hết lòng thương yêu đùm bọc các vương hầu tôn thất.
 Nền quân chủ quý tộc dòng họ.
2) Biến đổi và phát triển nền hành chính
Họ Trần tuy đã nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong triều đình và một số lộ phủ
quan trọng, nhưng số lượng người và năng lực có hạn, vẫn phải xây dựng bộ máy hành

chính từ trung ương  địa phương, thu nhận nhiều người thuộc các tầng lớp. Nhà nước
này là khối liên kết của dòng họ Trần với bộ phận quan liêu ở các cấp chính quyền khác
nhau và ngày càng mở rộng về phương thức tổ chức và cơ chế vận hành của nhà nước này
có mặt phỏng theo mô hình nhà Tống.
* Triều đình:
- Bộ phận trung khu: gồm tể tướng, á tướng, tri mật viên sứ và hành khiển ở môn
hạ sảnh có nhiệm vụ chỉ đạo các quan văn võ. Đứng đầu trung khu là quan chức mang
danh hiệu tam thái (sư, phó, bảo) và tam thiếu (sư, phó, bảo) và tâm tư (tư đồ, tư mã, tư
không). Chức vụ tể tướng phải là thân vương với chức danh là tả hữu tướng quốc hay
nhập nôi kiểm hiệu đắc tiến khai phủ nghi đồng tam ti bình chương sự. Chức vụ á tướng
thường là tham tri chính sự hay là tri mật viên sự và nhiều khi mang chức danh là tả, hữu
bộc xạ kèm thêm 2 chữc “nhập nội”.
Chức vụ hành khiển gần ngang với á tướng chia làm 2 ban tả và hữu ở kinh đô
Thăng Long và hoàng cung Tức Mặc, nhưng chung 1 viện, về sau đổi là môn hạ sảnh.
Danh hiệu cao nhất của quan chức hành khiển là nhập nội hành khiển đồng trung thu môn
Trang 25

×