Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Nhiên liệu sinh học: Nguồn năng lượng tương lai(tt) potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.74 KB, 43 trang )



Nhiên liệu sinh học:
Nguồn năng lượng
tương lai(tt)




IV. NHIÊN LIỆU SINH HỌC
(BIOFUEL) - CÔNG NGHỆ VÀ
ỨNG DỤNG
1. Phát triển biofuel ở các nước trên
thế giới

1.2. Các nước thuộc khối EU
Liên hiệp châu Âu (EU) đặt mục
tiêu tăng tỷ lệ biofuel lên 6% vào
năm 2015. Nhằm mục tiêu nói trên,
vừa qua EU trợ cấp 45 euro cho
nông dân đối với mỗi ha trồng các
loại cây nhiên liệu. Dưới đây là
tình hình phát triển biofuel tại một
số nước thuộc EU.
1.2.1. Pháp: Pháp là nước có lịch
sử sử dụng biofuel lâu đời. Kể từ
cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, Pháp
đã trồng các loại cây làm nguyên
liệu sinh khối sản xuất biofuel. Với
tiềm năng nguyên liệu sinh khối,
Pháp hiện nay đang là một trong


những nước sản xuất biofuel hàng
đầu ở châu Âu, cả bioetanol và
biodiezel.
Kể từ năm 2001, sản lượng biofuel
ở Pháp đã đạt mức 403.000 tấn,
trong đó biodiezel chiếm 310.000
tấn, còn lại 91.000 tấn là bioetanol.
Ngoài hai sản phẩm trên, Pháp còn
sản xuất ETBE từ etanol: năm 2000
sản lượng ETBE là 193.000 tấn.
Công ty sản xuất biofuel lớn nhất ở
Pháp là Diester Industries.
Biodiezel của Pháp chủ yếu đi từ
nguyên liệu dầu hạt cải và dầu đậu
tương. Hai loại này dùng để pha
trộn với diezel thông thường. Đối
với xe tải lớn, nhiên liệu thường
được pha trộn tỉ lệ 30% biodiezel,
còn bình thường tỉ lệ pha trộn là
5%. Bioetanol của Pháp không sử
dụng làm nhiên liệu dưới dạng cồn
tinh khiết nhưng được chuyển
thành ETBE dùng làm phụ gia pha
xăng.
Hiện tại các loại nhiên liệu pha trộn
ở Pháp đang sử dụng cho các xe tải
nặng chạy ở vùng ngoại ô. Suốt
thập kỷ qua, nhiều thành phố ở
Pháp đã sử dụng biodiezel cho
ngành vận tải công cộng.

Biofuel lỏng là một trong 4 lĩnh
vực sản xuất năng lượng sinh học
(bio-energy) ở Pháp. Ngay từ năm
1992, Pháp đã áp dụng giảm thuế
sản xuất biofuel cho những pilot
nhỏ. Nhưng sau này, khi EU đưa ra
các quy định cụ thể, Pháp đã áp
dụng chế độ giảm 100% thuế sản
xuất kinh doanh biodiezel và 80%
đối với bioetanol. Nếu không vì
những quy định gây rào cản trước
khi Sách trắng và Sách xanh của
EU ra đời, thì chắc chắn Pháp (một
trong 4 nước sản xuất biofuel hàng
đầu EU) đã có thể phát triển hơn
nữa.
Mục tiêu của Chính phủ Pháp là sẽ
tăng gấp ba lần sản lượng biofuel
vào năm 2007. Trong vòng ba năm
tới sẽ có 4 nhà máy sản xuất
biofuel mới, mỗi nhà máy công
suất 200.000 tấn/ năm, ra đời, sẽ
tạo 6000 việc làm mới.
Pháp sẽ tăng tỷ lệ bổ sung biofuel
từ mức bình thường 1% lên 2% vào
năm 2005 và 5,75% vào năm 2010
theo đúng quy định mới ban hành
của EU.
Riêng đối với biogas, Pháp cũng là
một trong một số nước hàng đầu.

Ngay từ năm 1990, cộng đồng dân
cư khu vực Lille ở Pháp đã cho
thực hiện dự án thử nghiệm sản
xuất biogas từ nước cống thải tại
nhà máy Marquette để làm nhiên
liệu. Kết quả là hàng ngày nhà máy
này sản xuất được 15.000
m
3
biogas sử dụng cung cấp nhiệt
và điện lại cho bản thân nhà máy và
làm nhiên liệu chạy xe bus. (8 xe
bus chạy biogas đã hoạt động suốt
từ 1994 tới khi được nâng lên con
số 100 xe bus chạy biogas vào năm
2002). Giá sản xuất 1m
3
biogas ở
đây là 0,75 euro.
1.2.2. Đức
Ở châu Âu, Đức là nước sản xuất
biofuel lớn nhất từ cây cải dầu, góp
phần giảm khối lượng xăng bán ra
ở đây.
Sản lượng biofuel ở Đức tập trung
chủ yếu vào biodiezel, Đức là nước
dẫn đầu EU sản xuất biodiezel.
Năm 2001, sản lượng biodiezel ở
Đức đạt mức 360.000 tấn, cao hơn
hẳn so với 246.000 tấn vào năm

2000. Trong tương lai, Đức sẽ vẫn
là nước có tiềm năng sản xuất
biodiezel lớn nhất EU, có thể đạt
mức công suất 780.000 tấn/ năm.
Hiện tại Đức có một số cơ sở sản
xuất biofuel, công suất trên 60.000
tấn/ năm và một số cơ sở công suất
dưới 5.000 tấn/ năm. Hai nhà sản
xuất biofuel chính ở Đức là
Conneman và Cognis lại được đặt ở
Pháp chứ không phải tại Đức.
Có khoảng 100 trạm biofuel khắp
nước Đức đang bán biodiezel, chủ
yếu là RME, SME (metyleste dầu
đậu tương) và các loại dầu gốc thực
vật khác. Các xe sử dụng các loại
biodiezel này không cần phải thay
đổi động cơ. Nói chung các loại
RME sử dụng ở Đức đều dưới dạng
tinh khiết không pha trộn. Đức là
một trong các nước tích cực sản
xuất biofuel ở EU và là một trong
ba nước của EU sử dụng biodiezel
100% cho các loại xe cộ (Áo và
Thụy Điển là hai nước cũng đang
sử dụng biodiezel tinh khiết). Hiện
tại Đức là một trong 6 nước sản
xuất biofuel ở EU với quy mô kinh
doanh. Tuy nhiên nước này cũng là
một trong 4 nước phải đương đầu

với quy định của EU trước đây về tỉ
lệ sản lượng biodiezel (Đức, Áo,
Pháp và Italia).
Ngoài việc áp dụng chế độ miễn
thuế sản xuất và kinh doanh biofuel
không theo luật định, Đức thực
hiện chế độ cấp giấy phép cho từng
hoạt động sản xuất ở mức độ gây ô
nhiễm môi trường trong giới hạn
được phép, ví dụ như: mở một
xưởng sản xuất nhiên liệu đi từ gỗ
có công suất từ 100 kW đến 1MW,
phần nào gây ảnh hưởng môi
trường thì sẽ phải xin phép cũng
như phải xin phép mở xưởng sản
xuất biofuel công suất nhiệt dưới
100 kW; với điều kiện nguyên liệu
dầu hạt cải, rơm, ngô và
cỏ miscanthus phải gia công ở nơi
khác. Đối với các nhà máy sản xuất
biofuel từ rơm và các chất hữu cơ
khác có công suất nhiệt từ 100 kW
đến 1 MW không gây hại môi
trường thì không phải xin phép.
Một công ty sản xuất biofuel hàng
đầu ở Đức là Lurgi AG đã coi xây
dựng các nhà máy sản xuất
biodiezel và bioetanol làm nhiên
liệu thay thế là một trong các
nhiệm vụ kinh doanh chủ chốt của

mình. Các nhà máy và cơ sở sản
xuất liên doanh của Công ty này
nằm rải rác khắp nơi: nhà máy sản
xuất có công suất hàng năm 56.000
tấn biodiezel và 10.000 tấn glyxerin
từ nguồn nguyên liệu dầu hạt cải
của Công ty JCN Neckermann -
Biodiezel GmbH tại Đức do Lurgi
xây dựng sẽ đi vào vận hành đầu
năm 2005; nhà máy sản xuất etanol
của Công ty Saxonian NAWARO
Chemie GmbH cũng do Lurgi xây
dựng có công suất 100.000 tấn
bioetanol từ 350.000 tấn hạt ngũ
cốc sẽ được hoàn thiện vào 2005;
Lurgi đã ký hợp đồng xây dựng nhà
máy Megametanol tại Iran với
Công ty Hóa dầu NPC Iran công
suất 5.000 tấn metanol / ngày; một
nhà máy sản xuất biodiezel từ hạt
cải dầu lớn khác công suất 85.000
tấn/năm sẽ cung cấp hàng năm 40
triệu lít biodiezel cũng được Lurgi
khởi công xây dựng tại Đức đầu
năm 2004 đã đi vào vận hành;
Trung Quốc đã ký hợp đồng với
Lurgi xây dựng các nhà máy sản
xuất metanol đặt tại Dongfang và
Hải Nam. Nhà máy sẽ đi vào vận
hành vào năm 2007.

Nhằm khuyến khích việc sử dụng
nhiên liệu xanh, chính phủ Đức đã
cắt giảm thuế đánh vào biofuel.
1.2.3. Tây Ban Nha
Là nước sản xuất chủ yếu bioetanol
và ETBE, Tây Ban Nha cùng với
Pháp là 2 nước sản xuất ETBE
chính trong EU. Cây nguyên liệu
để sản xuất biofuel tại đây được
trồng trên 43.000 ha đất, trong đó
36.000 ha để trồng cây lấy hạt,
7.500 ha đất còn lại trồng hướng
dương. SME cũng được sản xuất ở
Tây Ban Nha.
Tại Tây Ban Nha, chính sách sản
xuất và kinh doanh biofuel chia
thành hai khu vực: nhà nước và địa
phương. Khu vực nhà nước có
nhiều quy định khuyến khích phát
triển biofuel quy mô kinh doanh.
Một trong các quy định đó là biện
pháp khấu trừ 10% thuế đầu tư cho
các đầu tư sử dụng nguyên liệu sinh
khối sản xuất biofuel (bioetanol và
biodiezel). Một khuyến khích xử lý
chất thải sinh học và sản xuất
biofuel khác là áp dụng mức tài trợ
từ Ngân quỹ Hoàng gia Tây Ban
Nha trị giá 30% chi phí đầu tư của
dự án. Một khoản tài trợ khác (có

thể lên tới 70% dự án) là tài trợ kết
hợp của ICO - IDEA (Viện Tín
dụng và Viện đa dạng hóa và tiết
kiệm năng lượng) với chiết khấu
5% tỉ lệ lợi nhuận thu được từ sản
phẩm biofuel hoặc các loại năng
lượng tái tạo khác.
Đầu tháng 8/2005, Phó Thủ tướng
Tây Ban Nha, Maria Teresa
Femandez, cho biết nước này đã
thông qua "Kế hoạch Phát triển
nhiên liệu tái sinh giai đoạn 2005-
2010", với tổng vốn đầu tư 23,6 tỷ
euro (29 tỷ USD), nhằm đảm bảo
sản lượng các nguồn năng lượng tái
sinh, chiếm 12% tổng công suất
điện tiêu dùng của cả nước vào
năm 2010.
Trong tổng số vốn nói trên, vốn đầu
tư của chính phủ chỉ chiếm 2,9%,
các công ty điện tư nhân chiếm
77,1%, và phần còn lại do các ngân
hàng, nhà thầu bất động sản và tập
đoàn công nghệ đóng góp. Chính
phủ Tây Ban Nha dự kiến sẽ dành
2,855 tỷ euro cho chương trình sản
xuất các nhiên liệu thay thế và 4,95
tỷ euro cho chương trình sản xuất
điện từ các nguồn năng lượng tái
tạo.

Ngoài ra, nước này cũng sẽ triển
khai các dự án sản xuất điện từ rác
thải sinh học và năng lượng Mặt
trời.
Sản lượng điện từ năng lượng gió,
một lĩnh vực mà Tây Ban Nha luôn
nằm trong tốp dẫn đầu thế giới , dự
kiến cũng sẽ tăng từ 13.000 MW
hiện nay lên 20.155 MW vào năm
2010.
1.2.4. Italia:
Biofuel được sản xuất chủ yếu ở
Italia là biodiezel (chủ yếu là RME,
SME) với sản lượng 78.000
tấn/năm. Italia là nước sản xuất
đứng thứ 2 trong EU về các sản
phẩm này. Chưa có con số chính
xác về lượng bioetanol sản xuất ở
nước này, nhưng có một nhà máy
sản xuất ETBE, công suất 90.000
tấn/ năm.
Nguồn sinh khối dùng để sản xuất
biodiezel là cải dầu và hướng
dương. Hiện tại Italia có hơn 9.500
ha trồng hướng dương và 550 ha
trồng cải dầu. Nước này có 8 nhà
máy sản xuất biodiezel sử dụng
nguồn dầu nguyên liệu từ đây.
Công suất dự tính giai đoạn 2008 -
2012 có thể đạt mức 500.000 tấn/

năm. Hai công ty sản xuất biofuel
chính ở Italia là Bakehte và Navaol.
Kể từ năm 1991, biodiezel đã được
bán tại các đô thị, công ty vận tải
và khu vực địa phương Italia. SME
được sử dụng dưới dạng tinh khiết
hoặc pha trộn với diezel thông
thường theo tỷ lệ 20%, hoặc sử
dụng để đốt các hệ thống sưởi ấm,
cung cấp nhiệt cho lò hơi, v.v…
Thông thường biodiezel ở Italia
được trộn với diezel dầu mỏ theo tỷ
lệ 5%.
Italia là nước tích cực trong lĩnh
vực sản xuất biofuel ngay từ năm
1991. Những năm sau đó biodiezel
đã được đưa ra mạng lưới phân
phối tại các đô thị, công ty vận tải ở
các địa phương. Italia là một trong
bốn nước được EU giao quyền sản
xuất một sản lượng xác định
biodiel. Trước đây Italia có quota
125.000 tấn, từ 2001 đã được
quyền tăng lên 320.000 tấn. Ngoài
ra EU còn cho Italia được miễn
giảm thuế nhiên liệu biodiezel tới
cuối năm 2004. Chương trình miễn
thuế 3 năm áp dụng ở Italia đủ để
cho nước này đạt mức công suất
300.000 tấn/ năm (mức thuế áp

dụng đối với diezel là 381,7 euro/
1000 lít) (đây là mức thuế đã được
điều chỉnh đối với biofuel).
Ngoài chính sách khuyến khích đối
với biodiezel, còn có quy định ưu
tiên đối với bioetanol và ETBE.
1.2.5. Thụy Điển
Là một trong ba nước chính của EU
sản xuất bioetanol. Tuy nhiên,
không như Pháp và Tây Ban Nha,
Thụy Điển không sản xuất ETBE.
Sản lượng bioetanol đạt được năm
2000 ở nước này là 20.000 tấn. Với
phương pháp chưng cất cải tiến,
sản lượng năm 2001 đạt 40.000 tấn.
Nhà sản xuất bioetanol chính ở
Thụy Điển là Ekobransl.
Bioetanol sản xuất ở Thụy Điển
được sử dụng dưới dạng nguyên
chất hoặc pha trộn dùng cho động
cơ ô tô. Biodiezel cũng đã được
ứng dụng trên quy mô nhỏ, ví dụ
RME tinh khiết được sử dụng trong
các đoàn xe tải nặng. Công ty sản
xuất ô tô Saab đang nghiên cứu cải
tiến các động cơ để có thể chạy
được bằng nhiên liệu thay thế.
Hãng Volvo cũng đang cải tiến
động cơ để xe của họ có thể chạy
bằng biodiezel tinh khiết. Thụy

Điển cũng tham dự trong dự án
Zevs, nhằm quảng bá rộng rãi các
loại xe cộ chạy nhiên liệu thay thế
thân môi trường. Stockhom là một
trong 8 thành phố có dự án thực
hiện vấn đề này. Các chương trình
hoạt động khác liên quan tới
biofuel gồm có chương trình
nghiên cứu của cơ quan năng lượng
Thụy Điển về khả năng phát triển
biofuel của nước này.
Chính phủ Thụy Điển đã đưa ra
chính sách thuế và một số biện
pháp hành chính để đạt được mục
tiêu giảm sử dụng năng lượng hóa
thạch, tăng sản xuất và sử dụng
năng lượng thay thế. Biofuel được
sản xuất và kinh doanh ở Thụy
Điển được miễn giảm các loại thuế
và phí, kể cả thuế năng lượng lẫn
thuế môi trường. Hai biện pháp tài
chính gián tiếp hỗ trợ phát triển
biofuel là chỉ đánh thuế CO
2
và lưu
huỳnh phát thải (thuế xanh). Các
biện pháp tài chính xem ra rất hiệu
quả góp phần thúc đẩy sản xuất và
sử dụng biofuel tại Thụy Điển.
Một nhà máy mới do Công ty

Skellefteakraft đầu tư xây dựng tại
Storuman (Thụy Điển) sản xuất
biofuel làm nhiên liệu cho nhà máy
điện sẽ ra đời trong thời gian tới.
Theo dự tính, 6 tấn cải dầu có thể
cung cấp 28 MWh điện năng.
1.2.6. Áo:
Là một nước sản xuất biofuel nhỏ
nhất EU, với sản lượng 31.000 tấn
biodiezel/ năm. Hòa nhịp với sự
phát triển biofuel toàn cầu, sản
lượng biofuel của Áo cũng tăng lên
đáng kể từ những năm 1990. Hiện
Áo có hai nhà máy sản xuất
biodiezel quy mô công nghiệp và
một số cơ sở sản xuất nhỏ hơn do
các tập đoàn hợp tác nông nghiệp
sở hữu. Hầu hết biodiezel sản xuất
ra là RME. Thành phần của SME
và metyleste từ dầu thải còn khá ít.
Nhà sản xuất biofuel chính ở Áo là
Công ty Olmijhle. Áo chưa sản
xuất bioetanol nhưng lại là nước
hết sức quan tâm tới chương trình
sản xuất DME theo công nghệ tiên
tiến hiện nay.
RME tại Áo được sử dụng pha trộn
với diezel thông thường, loại RME
tinh khiết chỉ được sử dụng cho các
đoàn xe tải được phép. Tại thành

phố Graz, dự án pilot sử dụng
biodiezel tinh khiết được tiến hành
từ năm 1994. Từ giữa 1994 - 1997,
hai xe bus công cộng cũng được
phép sử dụng biodiezel. Kể từ 1999
thành phố này tăng mức xe bus sử
dụng lên 10 chiếc và hiện nay có 40
xe bus chạy khắp Graz sử dụng
hoàn toàn biodiezel. Tại Áo hiện đã
có hơn 50 trạm phân phối ECO
diezel 50 (50% biodiezel) dành
riêng cho các loại xe được phép.
Áo là nước trong EU không bị hạn
chế sản xuất biodiezel. Sản lượng
cải dầu trong những năm cuối 1990
sụt giảm đã được chính sách mới
của nhà nước hỗ trợ. Chính sách
này có tên "ửpul" nhằm tăng mạnh
nguồn nguyên liệu tái tạo trên cơ sở
tăng canh tác. Một biện pháp tài
chính của ửpul là nhà nước thanh
toán tiền cho các nông trại và cá thể
trồng cây phục vụ sản xuất biofuel
trên đất bỏ hoang.
Một chính sách khuyến khích khác
là giảm thuế sản xuất và kinh
doanh biofuel. Ở Áo miễn giảm

×