Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (34.92 KB, 1 trang )
Lưu ý khi dùng thuốc Đông y trị sốt xuất huyết
Trước hết cũng cần thống nhất về khái niệm của loại bệnh mang tính chất "dịch dã" nguy hiểm này, có như
vậy mới có thể đưa ra được cách phòng và trị bệnh một cách có hiệu quả hơn. Đông y nói chung và YHCT
Việt Nam nói riêng không có khái niệm về bệnh "sốt xuất huyết" mà được xếp chung vào nhóm bệnh "ôn
bệnh" và " ôn dịch".
/>%2020/03.JPG
Ngày nay, khoa học phát triển, người ta đã "vạch mặt, chỉ tên" virut Dengue là mầm bệnh do loại muỗi
"Vằn" truyền bệnh từ người sang người. Do vậy, cái tên bệnh "sốt xuất huyết" hay "sốt xuất huyết Dengue"
là chính xác và không cần bàn cãi. Có điều cũng không nên nhầm lẫn giữa "sốt Dengue" với "sốt xuất huyết
Dengue " vì chúng đều là một loại bệnh dịch, do loài muỗi "Vằn" (Aedes aegypti) là vật trung gian truyền
bệnh từ người này sang người khác. Bệnh Dengue thường xảy ra đối với người lớn nhiều hơn với các triệu
chứng sốt cao, đau đầu, đau mình mẩy, mệt mỏi và cũng không gây nguy hiểm nhiều đến tính mạng.
Khác với loại sốt dịch này, sốt xuất huyết Dengue, hay thường gọi là sốt xuất huyết, một bệnh nguy hiểm,
có thể xảy ra với bất cứ đối tượng nào, song đa số là ở trẻ em, với triệu chứng của thời kỳ đầu là sốt cao,
đau đầu, khó thở kèm theo đau bụng đồng thời với các dấu hiệu của xuất huyết dưới da, nội tạng. Ở thời
kỳ sau, hội chứng sốc sốt xuất huyết có thể xảy ra do mất máu nhiều và tụt huyết áp. Nếu không được phát
hiện, chẩn đoán, điều trị kịp thời có thể dẫn đến nguy hiểm tính mạng người bệnh. Nguyên tắc điều trị sốt
xuất huyết của YHCT cũng như của YHHĐ là điều trị theo triệu chứng là chính.
Đối với việc điều trị bệnh sốt xuất huyết, YHCT dùng nguyên tắc đối lập về tính chất của thuốc cổ truyền với
triệu chứng của bệnh sốt xuất huyết.
Ở thời kỳ đầu, triệu chứng của bệnh chủ yếu là sốt cao để rồi dẫn đến "bức huyết vong hành" tức là xuất
huyết. Do đó về mặt thuốc cổ truyền phải sử dụng một số vị trong nhóm thuốc tân lương giải biểu để hạ
nhiệt, như các vị thuốc có vị đắng, ngọt, tính hàn, lương, sinh tân, chỉ khát: hạn liên thảo (cỏ nhọ nồi, cỏ
mực), rau má (tích tuyết thảo), mạn kinh tử nên dùng dưới dạng thuốc sắc, ngày 8-12g; có thể dùng loại
tân lương giải biểu phối hợp với loại lương huyết chỉ huyết: sài hồ, mạn kinh tử, cỏ nhọ nồi, rau má, lá sen,
mỗi thứ 10-12g, ngày 1 thang dưới dạng thuốc sắc hoặc dùng loại thuốc thanh nhiệt tả hỏa như thạch cao,
tri mẫu, huyền sâm với cổ phương: Bạch hổ thang: thạch cao 16g, tri mẫu 6g, ngạnh mễ 12g, cam thảo
6g, ngày 1 thang dưới dạng thuốc sắc, cũng có thể dùng phương Lục nhất tán: hoạt thạch 6g, cam thảo 1g.
Cam thảo rửa sạch, thái nhỏ, tán thành bột mịn, thạch cao nghiền thành bột mịn. Trộn đều hai thứ theo
cách trộn bột kép, mỗi lần uống 8-10g, ngày 2-3 lần; hoặc dùng loại thanh nhiệt giải độc: bồ công anh, sài
đất, liên kiều, kim ngân hoa, thổ phục linh vì chúng có tác dụng tiêu viêm và đào thải các chất độc sinh ra