Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

vấn đề vũ khí sinh học pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.24 KB, 19 trang )

Hiện nay đã có trên 50 loại vi khuẩn, virus,
độc tố có nguồn gốc sinh vật được nghiên
cứu và liệt kê trong danh mục vũ khí sinh
học dùng để tấn công khủng bố sinh học
và chiến tranh sinh học. Công tác phòng
chống khủng bố sinh học, vũ khí sinh học,
thảm họa sinh học là công tác của toàn xã
hội, toàn cộng đồng. Từng cá nhân, từng
tập thể đều có trách nhiệm tự bảo vệ,
phòng chống, giảm nhẹ thiệt hại, ứng phó
kịp thời, không để lây lan, cứu chữa sớm
và có hiệu quả người mắc.
I. Vũ khí sinh học
Các loại vũ khí sử dụng trong chiến tranh
bao gồm: vũ khí nổ - cháy, hóa học, sinh
học và phóng xạ. Chiến tranh thế giới lần
thứ nhất đã sử dụng vũ khí hóa học, chiến
tranh thế giới thứ II đã sử dụng vũ khí
nguyên tử. Vũ khí sinh học (bệnh dịch
hạch) cũng đã có trong Ðại chiến II và sau
đó được sử dụng thăm dò trong chiến tranh
Triều Tiên nhưng chưa đạt hiệu quả. Trong
những thập kỷ qua, môn sinh học phân tử
phát triển tạo ra các chủng vi sinh vật đột
biến bằng cách can thiệp vào gen di truyền
tạo ra các chủng mới kháng thuốc kháng
sinh, chống lại kháng thể do vaccin tiêm
phòng và có độc lực cao. Thông qua công
nghệ di truyền (genetic engineering) đã
thay đổi cấu trúc gen để tạo ra các vi sinh
vật (vốn không gây bệnh) có khả năng gây


bệnh mới, hoặc các vi sinh vật gây bệnh có
khả năng kháng thuốc mạnh, có độc lực
cao. Hiện nay cũng đã thử nghiệm cấy một
số độc tố vào gen của một số trực khuẩn
gây viêm cơ hoại thư để tăng khả năng sát
thương, gây các thể bệnh nguy kịch.
Những vi sinh vật này đã trở thành các vũ
khí mới được gọi là vũ khí gen, vũ khí di
truyền, vũ khí ADN

Các nhà nghiên cứu vũ khí đã có một đánh
giá về kinh tế như sau: để tạo ra hiệu quả
sát thương cho dân cư một khu vực có diện
tích là 1km2 thì nếu dùng vũ khí thông
thường (conventional weapons) phải tốn
2.000 đô la Mỹ, nếu dùng vũ khí hạt nhân
(nuclear weapons) phải tốn 800 đô la, nếu
dùng vũ khí hóa học dạng khí độc thần
kinh (nerve-gas weapons) phải tốn 600 đô
la, còn nếu dùng vũ khí sinh học
(biological weapons) thì chỉ tốn 1 đô la.

Trên thế giới, một số nước đã triển khai
nghiên cứu các vũ khí sinh học và cách
phòng chống trong nhiều năm dựa trên kết
quả nghiên cứu của các viện nghiên cứu
sản phẩm sinh học, vi sinh vật, độc học,
bệnh lây tối nguy hiểm, động vật học, thực
vật học, di truyền học


Các binh sĩ Hoa Kỳ đều được huấn luyện
về phòng chống vũ khí hạt nhân, sinh học,
hóa học (vũ khí N, B, C), từng binh sĩ
được phát một tờ hướng dẫn phòng vệ bản
thân trước cuộc tấn công hạt nhân, hóa
học, sinh học. Quân đội Hoa Kỳ đã nghiên
cứu các chất liệu dùng trong chiến tranh
sinh học, cách phòng vệ trong chiến tranh
sinh học, phòng chống các chất hóa học và
phòng vệ chiến tranh hạt nhân.

Riêng về vũ khí sinh học, đứng trên quan
điểm quân sự phải đạt các yêu cầu sau
đây:

1. Là sinh vật phẩm dùng trong hoàn cảnh
chiến tranh và điều kiện chiến thuật, phải
có khả năng gây sát thương (bằng cách gây
bệnh, gây các tổn thương, gây nhiễm độc)
làm thiệt hại sinh lực đối phương, làm tổn
thất cả con người, động vật chăn nuôi, cây,
hoa màu, làm hư hại cơ sở vật chất kỹ
thuật của nước đối địch.

2. Các sinh vật phẩm được dùng trong
chiến tranh sinh học phải có: hiệu quả sát
thương cao, thời gian ủ bệnh ngắn, việc
sản xuất, bảo quản, vận chuyển được thuận
lợi, có khả năng sản xuất một số lượng
lớn, giá thành không quá tốn kém.


3. Cách sử dụng các sinh vật phẩm chiến
tranh sinh học rất đa dạng: dạng bột, dạng
lỏng, dạng bụi dịch lông phun (aerosol)

Trong 3 dạng xâm nhập nhiễm bệnh,
nhiễm độc (qua da, qua đường hô hấp, qua
đường tiêu hóa) thì có hiệu quả nhất và
xâm nhập nhanh nhất là đường thở vì liều
lượng vi khuẩn hoặc độc tố gây bệnh, gây
độc thường ít hơn so với khi bị nhiễm
khuẩn một cách tự nhiên. Do đó, dùng
dưới dạng khí dung (aerosol) các phần tử
gây bệnh, gây độc có kích thước từ 2 đến 4
micron. Gây nhiễm bệnh qua thực phẩm,
nước uống nếu rửa sạch, nấu chín, lọc
nước và khử trùng nước bằng cloramin thì
hiệu quả gây bệnh sẽ không còn hoặc bị
hạn chế nhiều. Qua đường da: một số nha
bào và vi khuẩn hoặc độc tố (như T2
mycotoxin ) xâm nhập qua cả da lành
(qua đường các ống lông, ống tuyến mồ
hôi, tuyến bã).

4. Các vi sinh vật được lựa chọn làm vũ
khí sinh học là:

- Các vi khuẩn (bacteria): dùng các loại
gây bệnh nguy hiểm, tối nguy hiểm - các
loại vi khuẩn đơn bào tồn tại tự do trong

thiên nhiên dưới dạng bào tử.

- Các virus gây bệnh: loại này phải sống
nhờ vào các tế bào sống để sinh sản qua
sao chép di truyền.

- Các rickettsia: loại vi sinh vật có các đặc
điểm của vi khuẩn và virus.

- Các chlamydia: vi sinh vật ký sinh bắt
buộc trong các tế bào.

- Các nấm: là các thực vật nguyên thủy.

- Các độc tố (toxin): các chất độc do vi
sinh vật tiết ra; các chất độc tách chiết từ
các cơ thể sống.

Ðể sản xuất một vũ khí sinh học cần có
những yêu cầu kỹ thuật sau đây:

1. Nghiên cứu số lượng vi khuẩn, độc tố
cần thiết để gây được bệnh cho một cá thể,
hoặc một tập thể nhất định.

2. Ðịnh được độc lực gây hại hoặc độc lực
để gây được thể nguy kịch, nặng của bệnh
hoặc nhiễm độc.

3. Xác định rõ được khả năng sinh bệnh

của vật phẩm sinh học.

4. Xác định thời gian ủ bệnh từ khi nhiễm
vật phẩm sinh học đến khi phát sinh các
triệu chứng đầu tiên.

5. Xác định khả năng lây nhiễm từ người
bị sang người khác.

6. Ước định tỷ lệ người bị tử vong khi mắc
bệnh hoặc nhiễm độc (tử vong nói chung,
tử vong theo thể loại bệnh nhiễm độc).

7. Tính bền vững tồn tại trong môi trường
thiên nhiên của chủng bệnh hoặc chất độc
sinh học.

Các sản phẩm sinh học được phân loại:
bền và không bền, dễ bốc hơi hay không
bốc hơi.

8. Không quá khó khăn trong sản xuất bảo
quản, vận chuyển và phân phối.

Ðể sử dụng cũng cần có những yêu cầu
sau đây:

1. Ðiều tra nắm rõ đối tượng: khả năng
miễn dịch của các cá thể (đã được tiêm
chủng loại gì, thời gian sau tiêm chủng).


2. Nắm chắc tình hình môi sinh khu vực sẽ
được sử dụng: thời tiết, khí hậu, thủy văn,
nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió, hướng gió

3. Công tác phòng chống của cộng đồng và
cá nhân: ý thức cảnh giác, sự hiểu biết,
công tác giám sát dịch bệnh và nhiễm độc
thực phẩm, công tác vệ sinh phòng bệnh,
công tác an ninh và trật tự xã hội.

4. Khả năng cứu chữa của đối phương: cứu
chữa tại chỗ, cứu chữa khẩn cấp, cứu chữa
chuyên khoa (tổ chức, cán bộ, trang bị,
thuốc chuyên trị ).

Vũ khí khủng bố sinh học - tấn công
khủng bố sinh học

Mục đích của tấn công khủng bố sinh học
là giết hại, gây tổn thất cho người, gia súc,
hoa mầu cây quả gây hoang mang trong
xã hội, phá hoại cơ sở hạ tầng và môi sinh.
Do đó, bọn khủng bố đã lựa chọn một số
tác nhân vi sinh vật gây bệnh như Bacillus
anthracis (trực khuẩn bệnh than), Yersinia
pestis coccobacillus (Trực cầu khuẩn dịch
hạch), Orthopoxvirus (virus đậu mùa),
Staphylococcal enterotoxin B (tụ cầu có
độc tố ruột B) và các vi khuẩn, virus gây

bệnh nguy hiểm khác: virus Ebola, virus
Marburg, virus viêm não, virus sốt xuất
huyết, trực cầu khuẩn Francisella
tularensis, bệnh sốt Q, trực khuẩn tả,
thương hàn và một số độc tố có nguồn gốc
sinh vật như botulinum (ngoại độc tố của
trực khuẩn Clostridium botulinum),
bufotoxin (độc tố lấy từ tuyến da cóc),
saxitoxin (độc tố lấy từ 1 loại hến
Sasidomus), batrachotoxin (độc tố lấy từ
da ếch Phyllobates bicolore), tetrodotoxin
(độc tố lấy từ gan và trứng của cá độc
Tetraodontidae), ricin (chiết xuất từ hạt
cây Ricinus communis)

Theo nhà sinh học Kanatfan Alibelov, cựu
lãnh đạo chương trình vũ khí sinh học của
Liên Xô cũ từ 1988 đến 1992, sau đó sang
Hoa Kỳ đổi tên là Ken Alibek hiện làm
việc ở Viện Nghiên cứu vũ khí sinh học tại
thủ đô Washington từ năm 1993 đến nay,
thì tùy mục đích khủng bố mà chọn các
dạng sản phẩm sinh học thích hợp:

- Nếu dùng để giết hại sẽ sử dụng các vi
khuẩn gây bệnh tối nguy hiểm, tử vong
cao hoặc các chất độc sinh phẩm, các độc
tố gây nhiễm độc nặng và tử vong.

- Nếu dùng để gây hoang mang, để gieo

rắc tâm trạng sợ hãi, bất ổn định trong xã
hội thì dùng nhiều loại vi sinh vật gây
bệnh cảnh khác nhau, dễ lây truyền trong
cộng đồng, đường lây nhiễm khác nhau.

- Nếu dùng để gây tổn thất về kinh tế,
dùng các vi sinh vật gây hại cho gia súc,
gia cầm thành các ổ dịch lớn, dùng côn
trùng, sâu bệnh phá hoại mùa màng, hoa
màu, cây ăn quả, dùng các mầm bệnh phá
hoại chăn nuôi thủy sản.

- Nếu dùng để phá hoại cơ sở hạ tầng thì
sử dụng các vi sinh vật, mầm bệnh có khả
năng phát tán nhanh trong hệ thống đường
xá, toa xe, máy bay, tầu thuyền, bến cảng,
khu đông dân cư, bưu phẩm.

- Hiện nay đã có trên 50 loại vi khuẩn,
virus độc tố có nguồn gốc sinh vật được
nghiên cứu và liệt kê trong danh mục vũ
khí sinh học dùng để tấn công khủng bố
sinh học và chiến tranh sinh học. Ðây cũng
là một hình thái thảm họa do con người
gây ra vì các vũ khí sinh học này là những
chủng bệnh, các độc tố có độc lực mạnh
gây bệnh nguy kịch với tỷ lệ tử vong cao,
với khả năng lây nhiễm qua nhiều đường
(da, vết thương, hô hấp, tiêu hóa ), có khả
năng phát tán rộng và xa (chứa trong thư,

bưu phẩm gửi qua nhiều quốc gia), dùng
dưới nhiều dạng: bột, dịch, dạng phun,
dùng sinh vật mang bệnh, sinh vật truyền
bệnh, dùng dạng vũ khí (bom, đạn rocket,
tên lửa chứa các mầm bệnh, độc tố ).
Nhân loại tiến bộ lên án vũ khí hóa học,
hạt nhân, sinh học vì tính năng hủy diệt
con người, vũ khí sinh học đã thành một
mối nguy cơ thảm họa cho sức khỏe cộng
đồng do đó chúng ta cần cảnh giác và cần
biết cách phòng chống loại vũ khí này, biết
cách đáp ứng và xử trí không để các cuộc
tấn công sinh học trở thành một thảm họa
sinh học, gây ảnh hưởng đến sức khỏe, đến
cuộc sống của chúng ta, đến trạng thái ổn
định đi lên của nước ta trong tình hình
diễn biến phức tạp của thế giới hiện nay.

II. Vụ tấn công khủng bố sinh học tại Hoa
Kỳ hiện nay

Bệnh than (Anthrax) và trực khuẩn bệnh
than (Bacillus anthracis) đã trở thành vũ
khí tấn công khủng bố sinh học trong cuối
tháng 9 và tháng 10 vừa qua ở Hoa Kỳ,
khởi đầu phát bệnh ở bang Florida, tiếp đó
cả ở thủ đô Washington và bang New
York, hiện nay đang có xu hướng xuất
hiện rộng hơn ở một số bang khác.


Tại sao những kẻ khủng bố lại chọn trực
khuẩn than? Trực khuẩn than là loại trực
khuẩn Gram (+) tồn tại trong thiên nhiên
dưới dạng nha bào nên bền vững, vi khuẩn
sinh trưởng ở nhiệt độ 37oC trong các môi
trường nuôi cấy thông dụng, là loại vi
khuẩn gây bệnh nhiệt thán ở gia súc ăn cỏ
như trâu, bò, dê, cừu nên người mắc
bệnh này thường làm nghề chăn nuôi, thú
ý, công nghệ da, hoặc những người ăn thịt
động vật bị nhiễm bệnh than. Bệnh than
lây nhiễm qua đường da, đường tiêu hóa,
đường thở (các nha bào trực khuẩn bay
trong bụi, không khí). Ðộng vật bị nhiễm
bệnh than biểu hiện bằng tổn thương ở da;
vết viêm mủ trên nền phù nề rộng có phủ
lớp hoại tử màu đen như than, thường thấy
ở chân của động vật. Thường gặp thể bệnh
than kết hợp với nhiễm các loại vi khuẩn
khác như Clostridium chauvoei và có thể
cả Clostridium septicum (cũng là các loại
vi khuẩn kị khí tồn tại dưới dạng nha bào
gây phù lớn dưới da, nề khí và nổi nhiều u
cục).

Trực khuẩn than gây bệnh bằng ngoại độc
tố (có 3 thành phần) gây hoại tử mô và phù
nề. Phần bao của trực khuẩn bệnh than gây
ức chế nặng các tế bào thực bào của cơ
thể.


Trực khuẩn bệnh than dưới dạng bào tử
kích thước nhỏ dưới 5(m, với số lượng
8.000 đến 20.000 bào tử khi hít thở, chúng
có khả năng vào tới các phế nang tận cùng
của phổi, cư trú ở các phế bào và qua hệ
bạch huyết di chuyển tới các hạch bạch
huyết trung thất. Tại đó trực khuẩn than
sinh trưởng, theo đường máu gây nhiễm
khuẩn huyết và nhiễm khuẩn nhiều nơi
trong cơ thể.

Cho đến nay đã có một biên tập viên ảnh
tờ báo The Sun ở Florida và hai nhân viên
bưu điện tại bưu cục Brentwood (thủ đô
Washington) chết vì bệnh than do khủng
bố. Hội chứng bệnh lý của những người
mắc bệnh là nặng vì nhiễm khuẩn bệnh
than do hít thở với thời gian ủ bệnh từ 1
đến 5 ngày với các triệu chứng sốt cao, tím
tái, ra nhiều mồ hôi, khó thở, hạch trung
thất sưng to, nhiễm khuẩn huyết, phế
viêm, viêm màng não do đó dẫn tới tử
vong ở những trường hợp quá nặng, mặc
dù được cứu chữa tích cực. Hiện còn 3
người nữa cũng mắc bệnh than qua đường
hô hấp, diễn biến bệnh đang nặng.

Cũng đã có 6 người mắc thể bệnh than qua
da có thời gian ủ bệnh từ 1 đến 10 ngày

sau đó xuất hiện tổn thương ở da (sưng đỏ,
mụn nước, hoại tử mầu đen). Nếu điều trị
sớm và tốt thì khỏi, để lại sẹo da. Nếu sức
đề kháng cơ thể kém (vì ngoại độc tố của
trực khuẩn than gây hoại tử mô, phù và ức
chế các tế bào thực bào của cơ thể) và điều
trị không đúng sẽ bị nhiễm khuẩn huyết và
nhiễm độc toàn thân, tỷ lệ tử vong trong
loại bệnh than qua da này là 5%. Nguy
hiểm là dạng bệnh than do hít thở như đã
nêu ở phần trên với tỷ lệ tử vong tới 90%
số trường hợp. Nhiễm bệnh than qua
đường dạ dày ruột, thời gian ủ bệnh từ 2
đến 5 ngày, có biểu hiện đi ngoài ra máu,
nôn ra máu, đau bụng, nôn mửa, chán ăn,
sốt, trường hợp nặng bị sốc nhiễm độc,
hạch mạc treo tràng sưng to, tổn thương
niêm mạc phần hồi tràng và manh tràng, tỷ
lệ tử vong từ 25% đến 75% số trường hợp
(trung bình là 50%).

Theo các tài liệu về y học thảm họa được
công bố trong số các tác nhân sinh học gây
bệnh qua đường hô hấp được làm vũ khí
sinh học, thì trực khuẩn bệnh than được
nêu lên hàng đầu. Do các đặc điểm tồn
sinh lâu dài dưới dạng bào tử, sinh trưởng
ở nhiệt độ 37oC và nhiễm bệnh qua 3
đường (da, thở, ăn uống) gây bệnh với tỷ
lệ cao nếu nhiễm bệnh than qua đường hít

thở nên trực khuẩn bệnh than đã được
dùng làm vũ khí khủng bố có hiệu quả.

Các địa điểm bị tấn công là Văn phòng
Quốc hội (Thượng viện, Hạ viện, một số
nghị sĩ), bưu điện (các bưu cục, nhân viên
bưu điện), tòa soạn một số báo và một số
hãng truyền hình, trung tâm vũ trụ
Kennedy và một số cơ sở khác

Các nhà chức trách an ninh tình báo Hoa
Kỳ đang tiếp tục truy tìm thủ phạm gieo
rắc bệnh than nhưng cũng chưa xác định
được. Cục điều tra Liên bang (FBI) và Cục
tình báo Trung ương (CIA) cho rằng chính
những kẻ khủng bố trong nước reo rắc trực
khuẩn bệnh than qua các lá thư chứa chất
bột màu trắng có bào tử trực khuẩn bệnh
than. Các nhà khoa học Hoa Kỳ cũng xác
nhận vi khuẩn bệnh than tìm thấy ở 2 bang
New York, Florida và thủ đô Washington
đều có nguồn gốc chung, đều là các bào tử
dạng mịn dễ di chuyển trong không khí, là
các bào tử tự nhiên chứ không phải sản
phẩm tạo ra bởi công nghệ sinh học và là
loại vi khuẩn có ở ngay Hoa Kỳ.

Ngày 28/10/2001 cũng đã phát hiện và xác
minh thêm một trường hợp mắc bệnh than
ở một nữ nhân viên bưu điện Hamilton

bang New Jersey, nâng số nhiễm bệnh
than lên 15 và 34 mẫu máu dương tính
bệnh than ở 1100 nhân viên bưu điện được
kiểm tra sức khỏe và xét nghiệm bệnh
than.

Ðể ghi nhớ về độc lực của trực khuẩn bệnh
than cần nêu: năm 1979 tại Liên Xô cũ đã
có một thảm họa sinh học từ một sơ xuất
trong quản lý chủng trực khuẩn than, đã có
trên 100 người nhiễm bệnh than trong đó
tử vong 66 nạn nhân.

III. Cảnh giác phòng chống khủng bố sinh
học, thảm hoạ sinh học
Công tác phòng chống khủng bố sinh học,
vũ khí sinh học, thảm họa sinh học là công
tác của toàn xã hội, toàn cộng đồng. Từng
cá nhân, từng tập thể đều có trách nhiệm tự
bảo vệ, phòng chống, giảm nhẹ thiệt hại,
ứng phó kịp thời, bao vây cô lập cách ly ổ
bệnh, mầm độc, thanh khử trùng, tẩy độc
làm sạch môi sinh, không để lây lan, cứu
chữa sớm và có hiệu quả người mắc.

Các cơ quan chuyên môn có trách nhiệm
điều tra phân lập xác định mầm bệnh, loại
độc tố và tiến hành các biện pháp hữu hiệu
để giải quyết hậu quả của vũ khí sinh học.


_____________________________

×