Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Bệnh cao huyết áp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.63 KB, 15 trang )

THÔNG TIN TIM MẠCH HỌC MEDIC
HƯỚNG DẪN DÀNH CHO NGƯỜI CAO HUYẾT ÁP
Cao huyết áp còn gọi là tăng huyết áp và khái niệm thường dùng trong dân chúng là bệnh tăng
xông (tension)
Cao huyết áp là bệnh lý thuờng gặp trong cộng đồng và gia tăng theo tuổi. Chiếm 8-12% dân số.Một số
yếu tố nguy cơ làm gia tăng nguy cơ cao huyết áp như tiều đường, thuốc lá, tăng lipid máu, di truyền.Cao
huyết áp là bệnh lý gây tử vong và di chứng thần kinh nặng nề như liệt nữa người, hôn mê với đời sống
thực vật, đồng thời có thể thúc đẩy suy tim ,thiếu máu cơ tim làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sống
( không cảm thấy khoẻ khoắn, mất khả năng lao động) và gia tăng khả năng tử vong.Do đó điều trị huyết
áp cao là vấn đề cần lưu ý trong cộng đồng vì những hậu quả to lớn của nó.
Ngày nay với sự tiến bộ về kỷ thuật chẩn đoán (máy đo huyết áp phổ biến rộng rãi) và càng có nhiều loại
thuốc điều trị ít tác hại, việc điều trị đã mang đến cho bệnh nhân sự cải thiện chất lượng cuộc sống, giảm
đáng kể tử vong và các di chứng(liệt nữa người, suy tim) do cao huyết áp gây nên.
Người bệnh cao huyết áp cũng cần quan niệm rằng cần phải chấp nhận việc điều trị tốn kém lâu dài để
đổi lấy một cuộc sống an toàn. Cao huyết áp thường không triệu chứng do đó nhiều người chỉ nhận ra
bản thân họ bị cao huyết áp khi họ bị tai biến mạch máu não (còn gọi là đột quî). Không thể căn cứ vào
triệu chứng nhức đầu, chóng mặt để uống thuốc hạ áp bởi vì nhức đầu, chóng mặt không phải thường
xuyên xuất hiện khi huyết áp tăng cao đột ngột và các triệu chứng này có thể gặp ở bệnh lý khác( ví dụ
nhức đầu do căng thẳng,viêm xoang, và chóng mặt có thể do tụt huyết áp ).Tốt nhất nên thường xuyên
kiểm tra huyết áp định kỳ với những người chưa cao huyết áp và khi nghi ngờ cao huyết áp cần đo huyết
áp nhiều lần .Nếu huyết áp vẫn cao thì nên bắt đầu biện pháp điều chỉnh cách sống(tập thể dục, cai
thuốc lá, điều chỉnh chế độ ăn) và xem xét điều trị thuốc.
Huyết áp không phải là con số hằng định
Trị số huyết áp thay đổi rất nhiều khi có yếu tố tác động như tâm lý(lo âu, sợ hãi, mừng vui ) vận động(đi
lại , chạy nhảy) hoặc môi trường (nóng lạnh), chất kích thích(thuốc lá, càphê, rượu bia) và bệnh lý (nóng
sốt, đau đớn).Trong những trường hợp trên, huyết áp thường tăng cao hơn bình thường.Ví dụ huyết áp
của bạn lúc nghỉ thường 130/80mmHg khi bạn lên cầu thang lầu 3,nếu bạn đo huyết áp ngay thì trị số
huyết áp của bạn có thể 150/80-180/90mmHg.Trong những trường hợp này không thể cho rằng bạn bị
cao huyết áp.Do đó tốt nhất bạn phải nghỉ ngơi ổn định trước khi đo huyết áp nếu bạn muốn có trị số
huyết áp trung thực và phải đo nhiều lần sau đó tính trung bình sau 3 lần đo.Bạn cũng đừng thắc mắc
nhiều nếu huyết áp trước đó khác với trị số bây giờ.


Nhịp sinh học huyết áp của bạn thường dao động rõ rệt, huyết áp thường cao dần từ lúc bạn thức giấc
và gia tăng tùy theo bạn vận động hoặc căng thẳng hay không. Vào chiều tối khi bạn nghỉ ngơi thư giãn
huyết áp xuống nhẹ và sẽ xuống thấp nhất khi bạn ngủ say vào ban đêm cho đến gần sáng.Các nghiên
cứu ghi nhận rằng ở người cao huyết áp mà huyết áp không hạ vào ban đêm hoặc hạ quá mức hoặc
tăng vọt vào buổi sáng đều là yếu tố bất lợi vì dễ bị đột quî do cao huyết áp.
Khi nào gọi là cao huyết áp ?
Người ta thường dùng khái niệm huyết áp tâm thu (hoặc huyết áp tối đa) cho trị số huyết áp trên và
huyết áp tâm trương (hoặc tối thiểu) cho trị số huyết áp dưới.Ví dụ khi bác sĩ của bạn ghi huyết áp của
bạn : 180/95mmHg tức là huyết áp tâm thu (hoặc tối đa của bạn là 180mmHg và huyết áp tâm trương
(hoặc tối thiểu) là 95mmHg.
Khi trị số huyết áp tâm thu > 140mmHg và huyết áp tâm trương >90 mmHg được xem là cao huyết
áp.Đối với người già, dạng cao huyết áp phổ biến là cao huyết áp tâm thu đơn thuần tức là chỉ số huyết
áp tâm thu >160mmHg nhưng huyết áp tâm trương không cao(<90mmHg).
Ở trẻ em trị số huyết áp có thấp hơn quy ước của người lớn.
Cách đo huyết áp:
Để có trị số huyết áp đúng, việc đo huyết áp là bước chẩn đoán quan trọng nhất vì tránh được việc điều
trị quá mức hoặc không đầy đủ.Cần đo nhiều lần và nhiều vị trí khác nhau (2 tay, 2 chân) để so sánh đôi
khi phát hiện bệnh lý mạch máu ví dụ như trong teo hẹp eo động mạch chủ huyết áp chi trên cao hơn chi
dưới.
Đo huyết áp cần thực hiện trong phòng yên tỉnh, trạng
thái tinh thần thoải mái.Tư thế đo huyết áp thông
thường là tư thế nằm và ngồi để làm sao băng quấn
cánh tay ngang mức với tim.Băng quấn cánh tay(cuff)
phải phù hợp kích thứơc cánh tay. Trẻ em cần có băng
quấn cánh tay kích thước nhỏ hơn.
Hướng dẫn đo huyết áp:
Nên sử dụng máy đo huyết áp nào?
Máy đo huyết áp thủy ngân được xem là tiêu chuẩn.
Ngày nay người ta giảm dần việc sử dụng máy đo
huyết áp thủy ngân vì độc tính với môi trường.Các loại

máy dạng đồng hồ thường phổ biến sử dụng trong giới thầy thuốc,trong khi đó các máy đo huyết áp điện
tử thường sử dụng rộng rãi trong dân chúng vì dễ đo.Theo Uỷ Ban phối hợp quốc gia về cao huyết áp
Hoa Kỳ(JNC)ø và Tổ chức Y tế Thế Giới(WHO), đối với máy đo huyết áp điện tử, chỉ nên sử dụng loại
băng quấn cánh tay,không nên sử dụng cổ tay và ngón tay vì không chính xác.
Bạn có thể chọn máy đo huyết áp đồng hồ hoặc có thể máy đo điện tử để tự đo huyết áp ở nhà. Máy đo
huyết áp đồng hồ thường kèm theo ống nghe thường giá rẽ hơn máy đo huyết áp điện tử nhưng đòi hỏi
bạn phải được nhân viên y tế huấn luyện cách đo . Đối với máy đo huyết áp điện tử ưu điểm là dễ sử
dụng , nhưng nhược điểm là các máy tại thị trường Việt nam chỉ có số ít Hãng như Omron là được kiểm
định theo tiêu chuẩn Anh Mỹ.Khi chọn máy đo huyết áp điện tử các bạn nên chọn các loại máy đo huyết
áp đã được các tổ chức uy tín kiểm định chất lượng. Hiện nay 2 tổ chức có uy tín trong kiểm tra chất
lượng máy đo huyết áp là Hiệp hội cao huyết áp Anh quốc (British Hypertension Society) và Hiệp hội
Phát triển Dụng cụ y tế Hoa kỳ (Association for Advancement of Medical Instrumentation).
Sau đây là một số máy đo huyết áp điện tử được khuyên dùng:
Loại tự động :
AND UA-767,và Sunbeam 7652
Omron HEM-711, Omron HEX -712
Omron HEM-705CP, Omron HEM-735C, Omron HEM-713C, Omron HEM -737 Intellisense,
Loại bán tự động(bơm tay) giá thành rẻ hơn:
AND UA -702, Omron HEM- 412C, Lumiscope 1065, Sunmark 144.
Một số máy có thể chấp nhận sử dụng:
Omron HEM 703CP, Omron M4, Omron MX2, Omron HEM-722C
Một số máy không chấp nhận sử dụng:
Philips HP5332, Nissei DS-175
Omron HEM 706, Omron HEM 403C
Bên cạnh đó một số máy ra đời sau này được cải tiến về chất lượng tốt hơn đã được bày bán trên thị
trường nhưng chưa được kiểm định bởi 2 tổ chức trên. Do đó bảng trên đây chỉ có giá trị tham khảo.
Các xét nghiệm cần làm khi bạn bị cao huyết áp:
Xét nghiệm cơ bản đối với tất cả các bệnh nhân:
Tổng phân tích nước tiểu
Công thức máu toàn phần

Sinh hoá máu (kali, natri. creatinin, glucose, cholesterol toàn phần, HDL cholesterol)
ECG
Xét nghiệm tối ưu:
Độ thanh thải creatinine,vi đạm niệu, protein nước tiểu 24 giờ, calcium, axit uric , triglyceride lúc
đói,LDL cholesterol, glycosolated hemoglobin, TSH,
siêu âm tim.
Xét nghiệm tìm nguyên nhân:
Huyết áp cao xãy ra >90% không tìm thấy nguyên nhân hay còn gọi là vô căn. Chỉ một số ít bệnh nhân
cao huyết áp có nguyên nhân gây ra.Cao huyết áp có nguyên nhân cần nghi ngờ ở những bệnh nhân trẻ
tuổi hoặc quá lớn tuổi, kém đáp ứng điều trị hoặc khởi phát cao huyết áp đột ngột. Do đó bác sĩ của bạn
sẽ cho thêm những xét nghiệm tầm soát tốn kém hơn để tìm nguyên nhân của cao huyết áp và như vậy
mới có thể giải quyết tận gốc nguyên nhân cao huyết áp.
Nếu huyết áp dao động nhiều có những cơn kịch phát kèm nhịp tim nhanh,vả mồ hôi, nhức đầu
nhiều bác sĩ của bạn sẽ nghi ngờ khối u ở thượng thận tủy sẽ cho thêm các xét nghiệm: siêu âm
thận tìm khối u vùng thượng thận và xét nghiệm catecholamine nước tiểu 24 giờ và chất chuyển
hoá vanillyl madelic acid (VMA), chụp đồng vị phóng xạ MIBG
Nếu cao huyết áp kèm chênh lệch huyết áp chi trên và chi dưới hoặc mạch đùi khó bắt cần xem
xét hẹp eo động mạch chủ .Có thể sử dụng siêu âm Doppler mạch máu ,chụp mạch máu chọn
lọc DSA. chụp mạch bằng cộng hưởng từ(Magnetic Resonance Angiography).Những kỷ thuật
này có thể sử dụng khi nghi ngờ hẹp Động mạch thận.
Các xét nghiệm Renin, Aldosterone và Cortisone cũng giúp ích nhiều trong xác định cao huyết áp
do bệnh lý nội tiết tố như hội chứng Conn và Cushing
Tại sao phải điều trị huyết áp cao?
Huyết áp cao thường gây tai biến nghiêm trọng như tử vong và hôn mê do tai biến mạch máu
não, di chứng liệt nữa người, suy tim, thiếu máu cơ tim, suy thận, phinh bóc tách động mạch
chủ Do đó mục đích chính của điều trị cao huyết áp là để phòng ngừa những biến chứng này.
Thông qua trị số huyết áp được hạ bằng thuốc hạ áp chúng ta có thể nhận biết huyết áp có thể
kiểm soát tốt hay không. Tốt nhất nên đưa trị số huyết áp về < 140/85mmHg;đối với người gia,ø
trị số huyết áp ban đầu có thể đưa về <160/90mmHg sau đó điều chỉnh tùy theo sự chịu đựng
của bệnh nhân.

Điều trị huyết áp cao là điều trị suốt đời,do đó khi huyết áp đã trở về gần bình thường cũng
không nên ngưng thuốc hạ áp mà phải điều trị tiếp tục vì huyết áp gia tăng trở lại khi ngưng
thuốc.Cần tham vấn thường xuyên bác sĩ của bạn khi huyết áp quá cao hoặc quá thấp trong quá
trình điều trị.
Điều trị thuốc hạ áp có thể phối hợp các nhóm thuốc khác nhau để tăng hiệu quả và giảm tác
dụng phụ (do sử dụng liều thấp).Cần lưu ý đến tác dụng phụ của thuốc khi điều trị đặc biệt là tụt
huyết áp ở người già. Ơû người già, bác sĩ điều trị thường cho thuốc hạ áp với liều khởi đầu chỉ
bằng nữa liều người trẻ vì người già dễ tụt huyết áp do thuốc hơn.
Ngoàøi việc điều trị huyết áp, cần lưu ý điều trị các yếu tố nguy cơ khác kèm theo như tiểu
đường , tăng lipid máu
Bạn sẽ được bác sĩ điều trị gì khi bạn bị cao huyết áp?
Thông thường khi đo trị số huyết áp của bạn cao >140/90nnHg với nhiều lần đo trong nhiều ngày bạn có
thể được xem là cao huyết áp.Nếu huyết áp của bạn không cao lắm tức khoảng 140/90-150/95nnHg và
tình trạng chung tốt và không mắc các bệnh làm xấu thêm tình trạng tim mạch.Bạn có thể không dùng
thuốc mà cần phải điều chỉnh cách sống. Nếu huyết áp cao hơn hoặc không cải thiện thì có thể xem xét
điều trị thuốc ngay sau khi cân nhắc cẩn thận.
Việc điều chỉnh các sống bao gồm:
Điều chỉnh chế độ ăn uống như giảm ăn mặn (<6g natri chlorua), giảm mỡ,giảm đường (nếu có
tiểu đường), không uống quá nhiều bia rượu mặc dù uống với số lượng hạn chế cũng giúp có lợi
cho sức khoẻ của bạn (chừng 15ml rượu ethanol, 360ml bia/ngày)
Tập thể dục đều đặn là cách thức giảm cân, hoạt động thể lực aerobic hàng ngày 30-45 phút hầu
hết các ngày trong tuần.
Ngưng hút thuốc lá.
Đời sống tinh thần thoải mái nghỉ ngơi giải trí hợp lý
Điều trị thuốc hạ áp:
Bác sĩ của bạn sẽ điều trị bệnh cao huyết áp bằng thuốc cho bạn khi trị số huyết áp khá cao, huyết áp
cao có ảnh hưởng tim,mắt ,thận , não.hay chưa cũng như kèm theo các bệnh liên quan khác (tiểu
đường, tăng mỡ trong máu.)
Một số thuốc hạ áp thường dùng:
Nhóm thuốc lợi tiểu:

Furosemid(Lasix, Lasilix)
Hydrochlorothiazid(Hypothiazid)
Indapamid(Natrilix SR)
Nhóm thuốc ức chế can xi:
Nhóm Dihydropyridine : Nifedipine(Adalat,Procardia) chỉ nên sử dụng chế phẩm
tác dụng kéo dài không nên sử dụng các chế phẩm tác dụng ngắn đặc biệt là
dạng ngậm dưới lưởûi vì không an toàn (gia tăng cơn đau thắt ngực hoặc nhồi
máu cơ tim và tử vong).
Felodipine(Plendil), Amlodipine(Amlor.Amdepin, Amlopress)
Nhóm Không Dihydropyridine :Tildiem(Tildiazem), Verapamil(Isoptin)
Nhóm thuốc ức chế men chuyển:
Captopril (Lopril), Enalapril (Renitec), Lisinopril (Zestril), Peridopril (Coversyl)
Nhóm thuốc ức chế bêta giao cảm:
Propranolol (Avlocardyl, Inderal), Atenolol (Tenormin), Metoprolol (Lopresor),Acebutolol
(Sectral), Pindolol (Visken)
Việc lựa chọn thuốc hạ áp nào là phụ thuộc vào tình trạng huyết áp và tình trạng bệnh
lý saün có( tuổi, bệnh tim, bệnh phổi,bệnh thận.).Ví dụ người có bệnh phổi như hen
suyễn hoặc nhịp tim chậm(<60 lần/phút) thì không nên sử dụng thuốc ức chế
bêta.Nhưng thuốc ức chế bêta có lợi hơn ở những bệnh nhân huyết áp cao kèm thiếu
máu cơ tim mà nhịp tim nhanh. Người có suy tim thì thuốc ức chế men chuyển có lợi
hơn. Thuốc ức chế can-xi Dihydropyridine thường được chỉ định rộng rãi vì ít tác dụng
phụ, nhưng tốt nhất sử dụng dạng tác dụng kéo dài.Nhóm không Dihydropyridine
(verapamil, diltiazem) có tác dụng tốt cao huyết áp kèm bệnh mạch vành , nhưng làm
chậm dẫn truyền và suy giảm sức bóp của tim do đó cần thận trọng với blốc A-V, và suy
tim.
Theo dõi hiệu quả điều trị:
Các cách thức theo dõi điều trị:
Đo huyết áp tại phòng khám:
Đây là cách thức thường áp dụng cho bệnh nhân. Nhược điểm là trị số huyết áp tại phòng khám thường
cao hơn trị số thực sự 20-30mmHg, dù kỷ thuật đo của bác sĩ là đúng. Hiện tượng này còn gọi là hiệu

ứng áo choàng trắng.Sự gia tăng huyết áp này là do tâm lý bệnh nhân khi đến môi trường y tế.Điều này
làm bác sĩ thay đổi thuốc hoăïc tăng liều sẽ gây bất lợi là tụt huyết áp do điều trị quá mức.
Đo huyết áp tại nhà: Thật là lý tưởng nếu bệnh nhân tự đo huyết áp ở nhà nhiều lần trong ngày để kết
hợp với trị số đo tại phòng khám. Với các máy đo huyết áp điện tử hiện nay( đặc biệt những máy có kiểm
định chất lượng tốt) sẽ hổ trợ lớn cho bác sĩ và bệnh nhân theo dõi điều trị.Một khó khăn thường gặp là
làm sao để bệnh nhân đo tại nhà đúng kỷ thuật và không phải tất cả bệnh nhân đều có maý đo huyết áp
tại nhà dù giá máy hiện nay tương đối chấp nhận.
Đo huyết áp với kỷ thuật theo dõi huyết áp liên tục 24 giờ (ABPM) trong điều kiện ngoại trú:
Ngoài ra, khi bạn không có máy đo huyết áp tại nhà, bác sĩ của bạn có thể đề nghị bạn mang 1 máy đo
huyết áp theo dõi liên tục 24 giờ (ambulatory blood pressure monitoring-ABPM), là máy đo huyết áp trong
điều kiện ngoại trú. Đây là loại máy hoàn toàn tự động, ban ngày máy có thể đo mỗi 15 phút 1 lần và ban
đêm mỗi 30 phút -1 giờ 1 lần đo.Sau đó 24 giờ sẽ nạp vào máy vi tính và bác sĩ chuyên trách sẽ in ra cho
bạn 1 bảng kết quả đo và biểu đồ huyết áp dao động trong ngày.Nhờ số lần đo >60 lần/ ngày mà bác sĩ
của bạn sẽ biết được chính xác hơn huyết áp của bạn đã trở về gần bình thường chưa và biết được thời
điểm nào huyết áp bạn lên cao hoặc có tụt huyết áp không để điều chỉnh thuốc hạ áp cho bạn.Chi phí
cho một lần đo 24 giờ chừng 200.000 đồng là tương đối cao nhưng hiệu quả đánh giá tình trạng huyết áp
trong khi điều trị là khá lớn và cho đến nay đây là biện pháp tốt nhất để đánh giá hiệu quả điều trị so với
đo huyết áp tại phòng khám hoặc tự đo tại nhà.
Hình 2: Một người cao huyết áp đang mang máy theo dõi huyết áp 24 giờ (ABPM)
Điều trị cao huyết áp chỉ thật sự ích lợi khi trị số huyết áp được đưa về gần như bình
thường.Với trị số này mới có thể ngăn ngừa biến chứng do cao huyết áp.Vấn đề quan
trọng là việc tuân thủ điều trị của bệnh nhân và sử dụng thuốc hợp lý của bác sĩ.Trong
nhiều khảo sát gần đây cho thấy chỉ 40-50% bệnh nhân được điều trị cao huyết áp có trị
số huyết áp trở về gần bình thường .Người cao huyết áp không tuân thủ đúng điều trị
một phần do chưa hiểu hết tầm quan trọng của điều trị huyết áp, do công việc không tái
khám và uống thuốc đúng giờ, chi phí thuốc và các xét nghiệm kèm theo trong mỗi lần khám khá đắt và
tác dụng phụ của thuốc.
Việc theo dõi điều trị có hiệu quả hay không là vấn đề quan trọng.Có thể bạn tự đo huyết áp ở nhà trung
bình > 3lần /ngày sau đó ghi vào sổ theo dõi huyết áp. Khi tái khám bạn nên đem theo để bác sĩ của bạn
tham khảo kết hợp với trị số đo huyết áp tại phòng khám bệnh.

Mặc dù huyết áp bạn có thể đã ổn định trong giới hạn cho phép nhưng điều đó không có nghĩa là bạn tự
ý ngưng thuốc. Bạn cần khám định kỳ tại bác sĩ chuyên khoa tim mạch mà bạn tin tưởng và tái khám
ngay khi bạn thấy có thay đổi bất thường như choáng váng, khó thở
Luôn luôn tìm nguyên nhân gây ra cao huyết áp:
Hầu hết các trường hợp cao huyết áp đều là không rõ nguyên nhân, do đó ngoài việc điều trị bằng thuốc
hạ áp phải lưu ý đến điều trị các yếu tố nguy cơ như tiểu đường ,tăng lipid máu, giảm ăn mặn,chế độ ăn
kiêng hợp lý, tập thể dục đều đặn.
Ở người trẻ hoặc người quá già có cao huyết áp cần lưu ý một số nguyên nhân mà việc điều trị can thiệp
phẩu thuật có thể chửa trị khỏi hoàn toàn như hẹp eo động mạch chủ, hẹp động mạch thận,u tủy thượng
thận.
Home
Cập nhật thông tin về bệnh cao huyết áp
Trong năm vừa qua Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra 10 yếu tố ảnh hưởng rất lớn sức khỏe con
người và có thể làm giảm tuổi thọ từ 10 đến 20 tuổi. Trong 10 yếu tố này thì ngoài cao huyết áp
còn có hút thuốc lá, nghiện rượu, mỡ trong máu cao, béo phì… nhiều nghiên cứu gần đây cho
thấy tỉ lệ người bệnh cao huyết áp đã không ngừng gia tăng và biến chứng của bệnh cao huyết áp
đã gây tử vong và tàn phế cho những người mắc chứng bệnh này ngày càng nhiều. Từ đó nhiều
nghiên cứu về cao huyết áp được thực hiện. Từ những nghiên cứu này các nhà khoa học đã đưa
ra nhiều khuyến cáo hữu ích, những phương cách điều trị cũng như cách phòng ngừa hữu hiệu
các biến chứng của bệnh cao huyết áp.
Trong bài này chúng ta sẽ đề cập đến các vấn đề liên đến cao huyết áp như:
Thứ 1: Phân loại hiện nay về cao huyết áp
Thứ 2: Những lưu ý khi bị cao huyết áp.
Thứ 3: Quan niệm hiện nay về điều trị bệnh cao huyết áp.
Hiện nay có một số bảng phân loại khác nhau về cao huyết áp nhưng bảng phân loại của Tổ chức
Y tế thế giới vẫn là tiêu chuẩn đầu tay của hầu hết thầy thuốc trên thế giới. Theo định nghĩa và
phân độ cao huyết áp của Tổ chức Y tế Thế giới:
* Gọi là có huyết áp bình thường khi: số huyết áp thấp hơn 130 mmHg trong giới hạn này nều số
huyết áp thấp hơn 120/80 mmHg thì được gọi số huyết áp lý tưởng, trong đó 120 gọi là số trên
và 80 gọi là số huyết áp duới, trị số huyết áp này rất tốt cho sức khỏe.

* Gọi là có huyết áp bình thường cao khi: số huyết áp trên từ 130 đến 139 mmHg hoặc số huyết
áp dưới từ 85 đến đến 89 mmHg.
* Gọi là cao huyết áp độ 1 hay cao huyết áp độ nhẹ khi: số huyết áp trên từ 140 đến 159 mmHg
hoặc số huyết áp dưới từ 90 đến 99mmHg.
* Gọi là cao huyết áo độ 2 hay cao huyết áp độ trung bình khi: số huyết áp trên từ 160 đến
179mmHg hoặc số huyết áp dưới từ 100 đến 109mmHg.
* Gọi là cao huyết áp độ 3 hay cao huyết áp độ nặng khi: số huyết áp trên từ 180mmHg trở lên
hoặc số huyết áp dưới từ 110mmHg trở lên.
Do vậy khi biết mình bị cao huyết áp bà con nên biết rõ số huyết áp trên và số huyết áp dưới và
cũng nên hỏi bác sĩ là mình bị cao huyết áp độ nào thuộc độ nặng hay nhẹ.
Khi số huyết áp trên và dưới thuộc 2 độ khác nhau thì chọn độ theo số huyết áp cao hơn.
Ngoài cách phân độ như trên của Tổ chức Y tế thế giới thì gần đây Hoa Kỳ cũng vừa đưa ra cách
phân độ khác trong đó người có số huyết áp ở mức bình thường hay bình thường cao tức số
huyết áp trên từ 120 đến 139mmHg hay số huyết áp dưới từ 80 đến 89 mmHg đều bị gọi là tiền
cao huyết áp. Cách gọi tiền cao huyết áp này dã gây nhiều hoang mang ảnh hưởng xấu đến tâm
lý người bệnh. Bởi vì người có số huyết áp 120/80mmHg được xem như là số huyết áp lý tưởng
thì nay lại bị gọi là tiền cao huyết áp theo cách phân loại này.
Để đánh giá mức độ nguy hiểm của bệnh cao huyết áp không chỉ dựa vào trị số huyết áp mà còn
dựa vào các yếu tố gọi là yếu tố nguy cơ, tổn thương nội tạng do cao huyết áp hoặc bệnh đi kèm
theo để phân loại mức độ nguy hiểm của bệnh cao huyết áp.
Ngày nay nhiều nhà khoa học đã xác định được 8 yếu tố nguy cơ chính của bệnh tim mạch
là:
1. Số huyết áp trên hoặc số huyết áp dưới cao từ độ 1 đến độ 3.
2. Nam trên 55 tuổi.
3. Nữ trên 65 tuổi
4. Hút thuốc lá
5. Rối loạn chuyển hóa mỡ hoặc bị bệnh đái tháo đường loại 2. Choloesterol toàn phần trên 250
mg% hoặc cholesterol gây hại tên là LDL-c cao hơn 155mg% hoặc cholesterol bảo vệ tên là
HDL-c thấp hơn 40mg% ở nam hay 48mg% ở nữ.
6. Gia đình có người mắc bệnh tim mạch sớm: nam dười 55tuổi nữ dưới 65 tuổi.

7. Béo phì vòng bụng tức bụng quá to: nam có vòng bụng trên 102 cm hoặc nữ có vòng bụng
trên 88 cm.
8. Tăng trong máu một loại protein có tên là C-creactive.
Tổn thương nội tạng do cao huyết áp
+ Dày tâm thất trái (trên điện tâm đồ, siêu âm tim, Xquang tin)
+ Có đạm trong nước tiểu (1,2-2mg%)
+ Tổn thương đáy mắt: xuất huyết, xuất tiết võng mạc, phù gai thị.
Có bệnh đi kèm:
+ Tai biến mạch máu não: xuất huyết não, nhũn não, thiếu máu não thoáng qua.
+ Đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, suy tim sung huyết.
+ Suy thận (creatinin/máu trên 2mg%), bệnh thận do tiểu đường.
+ Phình động mạch chủ.
Dựa vào các yếu tố này Tổ chức Sức khỏe Thế giới phân cao huyết áp ra các nhóm như
sau:
1. Nhóm cao huyết áp ít nguy hiểm:
- Nam tuổi dưới 55, nữ tuổi dưới 65
- Cao huyết áp độ I không có yếu tố nguy cơ đi kèm.
2. Nhóm cao huyết áp nguy hiểm trung bình:
- Cao huyết áp độ I, II
Có ít hơn 2 yếu tố nguy cơ
3. Nhóm cao huyết áp nguy hiểm cao:
- Cao huyết áp độ I, II
- Có kèm theo trên 3 yếu tố nguy cơ,
- Hoặc cao huyết áp độ III mà không có yếu tố nguy cơ.
4. Nhóm cao huyết áp rất nguy hiểm:
- Cao huyết áp độ III kèm theo ít nhất 1 yếu tố nguy cơ hay có bệnh tim mạch, tiểu đường đi kèm
hoặc cơ thể bị tổn thương do cao huyết áp.
Từ việc phân nhóm giúp cho người bệnh có thái độ điều trị kịp thời và tích cực.
Do vậy khi biết mình bị cao huyết áp bà con phải thực hiện các xét nghiệm cơ bản sau đây để đủ
yếu tố xác định mình thuộc nhóm cao huyết áp nào :

7 xét nghiệm cơ bản cần thực hiện:
1. Đếm lượng hồng cầu trong máu.
2. Đo lượng đường trong máu.
3. Đo chức năng thận.
4. Đo các thành phần mỡ trong máu.
5. Đo điện tâm đồ.
6. Chụp X quang tim phổi.
7. Siêu âm tim nếu có điều kiện.
Như vậy người thuộc nhóm nguy hiểm càng cao thì nguy cơ xấu cho sức khỏe càng cao. Tuy
nhiên có một số yếu tố nguy cơ chúng ta có thể làm thuyên giảm hay mất hẳn như: hút thuốc lá,
béo phì vòng bụng mỡ trong máu cao, đái tháo đường.
Hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ chúng ta có thể loại bỏ được, bỏ hút thuốc lá mang lại các lợi ích
sau cho sức khỏe:
Lợi ích tức thì:
- 20 phút sau ngưng hút thuốc lá huyết áp, mạch và nhiệt độ trở về bình thường.
- Sau 24 giờ các cơn đau tim bắt đầu giảm.
- Sau 48 giờ ăn uống thấy ngon miệng hơn
- Sau 72 giờ phế quản dãn ra hơn, hô hấp dễ dàng hơn, lượng không khí hít thở tăng nhiều hơn.
- Sau 1 – 9 tháng giảm được những cơn ho, tình trạng thở ngắn và thiếu hơi thở.
Lợi ích lâu dài:
- Sau vài tháng ngưng hút thuốc lá nguy cơ bệnh mạch vành tim bắt đầu giảm rõ rệt và sau 3-5
năm trở về giống như người chưa hút thuốc lá.
- Sau 10 năm ngưng hút thuốc lá nguy cơ ung thư phổi giảm 30-50%, sau 15 năm nguy cơ ung
thư phổi giống như người chưa hút thuốc lá.
- Ngưng hút thuốc lá còn làm giảm nguy cơ ung thư khác như ung thư thanh quản, thực quản, tụy
tạng, bàng quang.
- Ngưng hút thuốc lá còn làm giảm các bệnh lý khác như tai biến mạch máu não, tắc mạch máu ở
chân, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, viêm phổi và cải thiện được tình trạng khí phế thủng, viêm
phế quản.
- Ở bệnh nhân tiểu đường ngưng hút thuốc lá làm giảm biến chứng tim mạch và tai biến mạch

máu não.
Như vậy sau khi đã xác định được mức độ nguy hiểm của bệnh cao huyết áp trong điều trị ta cần
lưu ý:
Mục tiêu điều trị cao huyết áp phải đạt được:
- Giảm tối đa các tai biến của cao huyết áp lên cơ thể.
- Đưa huyết áp về dưới 130/85mmHg ở bệnh nhân tuổi trung niên hoặc có bệnh tiểu đường.
- Đưa huyết áp về dưới 140/90mmHg ở người cao tuổi.
Các biện pháp thực hiện:
+ Điều trị không dùng thuốc: thay đổi một số thói quen trong cuộc sống để có tác dụng tốt cho
huyết áp.
+ Điều trị dùng thuốc: sử dụng các nhóm thuốc hạ huyết áp và những lưu ý.
Vấn đề thay đổi lối sống có tác dụng:
. Phòng ngừa cao huyết áp và các bệnh tim mạch khác.
. Làm hạ huyết áp trong những trường hợp cao huyết áp nhẹ.
. Làm giảm liều thuốc cần dùng và làm tăng tác dụng của thuốc.
. Giảm thiểu những yếu tố nguy cơ có thể được.
Thay đổi lối sống gồm các vấn đề sau đây:
1. Ngưng hút thuốc lá: giúp giảm nguy cơ bệnh tim mạch và bệnh đường hô hấp. Nếu việc ngưng
hút thuốc gặp khó khăn có thể dùng nicotin.
2. Giảm cân nặng: Trong trươờg hợp bị thừa cân nặng, nếu giảm cân được thì giúp cho việc điều
trị hạ huyết áp dễ dàng hơn. Ngoài ra còn tác dụng tốt cho bệnh tiểu đường, mỡ trong máu cao,
dầy thất trái.
3. Uống rượu: Uống quá nhiều rượu đến say xỉn rất dễ bị tai biến mạch máu não nhưng uống ít
rượu không quá 2 lon bia mỗi ngày có thể làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch.
4. Ăn lạt: Ăn lạt bằng cách giảm từ 2 muỗng café muối mỗi ngày xuống còn 1 muỗng café mỗi
ngày có thể giúp giảm số huyết áp trên xuống còn 4-6 mmHg. Người cao huyết áp
Nên kiêng cử muối chỉ ăn mỗi ngày khoảng 6g muối khoảng 1 muỗng cà phê.
5. Điều trị dùng thuốc:
* Nguyên tắc:
- Dùng liều thấp ban đầu với 1 loại thuốc.

- Kết hợp 2 loại thuốc khi cần hiệu quả hạ huyết áp tối đa: nên cộng thêm liều nhỏ thuốc thứ 2
hơn là tăng liều thuốc đang dùng.
- Nếu thuốc được chọn đầu tiên có hiệu quả kém hoặc có nhiều tác dụng phụ thì đổi nhóm thuốc
khác không cần tăng liều hoặc phối hợp thêm thuốc thứ 2.
- Nên dùng loại thuốc có tác dụng kéo dài cả ngày.
Lợi ích của việc điều trị cao huyết áp:
* Khi hạ được số huyết áp trên 10 – 14mmHg và số huyết áp dưới 5-6 mmHg có thể làm giảm
được 2/5 nguy cơ tai biến mạch máu não, 1/6 nguy cơ bệnh mạch vành và 1/3 nguy cơ bệnh tim
mạch.
* Cao huyết áp độ I điều trị với 1 loại thuốc cần giảm số huyết áp trên 10mmHg, số huyết áp
dưới 5mmHg.
* Cao huyết áp độ II, III cần điều trị để giảm số huyết áp trên 20mmHg, số huyết áp dưới
10mHg, hoặc hơn nữa cần phải kết hợp nhiều thuốc.
Chọn lựa thuốc hạ áp:
Phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:
- Yếu tố kinh tế - xã hội và thuốc có sẵn ở nhiều nước khác nhau.
- Yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch.
- Tổn thương cơ quan đích và các bệnh tim mạch, tiểu đường, thận đi kèm.
- Tương tác với những thuốc khác.
Bà con cần bỏ đi quan niệm sai lầm cho rằng uống thường xuyên thuốc hạ áp sẽ bị lờn thuốc từ
đó xuất hiện quan niệm chỉ uống thuốc khi huyết áp cao và ngừng thuốc khi huyết áp về bình
thường. Cách điều trị này rất dễ bị các tai biến nguy hiểm của cao huyết áp. Hầu hết các loại
thuốc mới hiện nay khi dùng lâu dài dưới sự chỉ định, theo dõi của bác sĩ đều mang lại lợi ích
cho tim mạch và phòng ngừa được các biến chứng của cao huyết áp.
Như vậy cao huyết áp là bệnh ngày càng phổ biến, sau khi đã xác định tình trạng huyết áp chúng
ta cần thực hiện một số xét nghiệm, xác dịnh những bệnh đi kèm, tổn thương cơ quan nội tạng
trong cơ thể. Để trên cơ sở đó chúng ta phân nhóm mức độ nguy hiểm của bệnh cao huyết áp để
có thái độ phù hợp khi điều trị hạ áp. Trong điều trị không dùng thuốc, có thể đưa huyết áp về
bình thường trong các trường hợp huyết áp bình thường cao, cao huyết áp mức độ nhẹ. Trong
điều trị nếu người bệnh tuân thủ đúng các hướng dẫn của bác sĩ thì người bệnh sẽ thấy mình có

cuộc sống thoải mái bình thường không phải lo âu về biến chứng của bệnh cao huyết áp. Bài nói
đến đây là hết, cám ơn sự chú ý theo dõi của quý vị và các bạn.

Bs.Ths Phan Hữu Phước
Thạc sĩ lão khoa – BV. Nguyễn Trãi
TĂNG HUYẾT ÁP - CÁCH NHẬN BIẾT, ĐIỀU TRỊ VÀ
PHÒNG NGỪA
Email
Bệnh lý & Rối loạn - Bệnh lý & Rối loạn
Thứ năm, 02 Tháng 11 2006 02:58
1- Huyết áp là gì?
{mosimage} Huyết áp (HA) là áp lực của dòng máu tác động lên thành động mạch (áp lực này được gọi là
huyết áp động mạch).Khi tim co bóp, máu sẽ được tống ra ngoài và ép vào thành động mạch làm thành
mạch căng ra. {josquote}Tăng huyết áp: kẻ giết người thầm lặng{/josquote} Số đo sức căng
thành động mạch khi máu dội vào là huyết áp tâm thu hay huyết áp cao nhất. vào thời điểm này nếu lấy
tay sờ vào các động mạch cổ, bẹn sẽ thấy mạch đập. Sau khi co bóp tim sẽ dãn ra và thành động mạch
sẽ co lại về trạng thái ban đầu, số đo vào thời điểm này là huyết áp tâm trương hay huyết áp thấp nhất.
2- Sự dao động của huyết áp
Ở người bình thường HA ban ngày cao hơn ban đêm, HA hạ xuống thấp nhất vào 1-3 giờ sáng khi ngủ
say và HA cao nhất từ 8-10 giờ sáng. Khi vận động, gắng sức thể lực, căng thẳng thần kinh, xúc động
mạnh… đều có thể làm HA tăng lên. Ngược lại khi nghỉ ngơi, thư giãn làm HA hạ xuống.
Khi bị lạnh gây co mạch, hoặc dùng 1 số thuốc co mạch (ví dụ thuốc nhỏ mũi) hoặc thuốc tăng co bóp cơ
tim, ăn mặn có thể làm HA tăng lên.Ở môi trường nóng, ra nhiều mồ hôi, bị tiêu chảy…hoặc dùng thuốc
dãn mạch có thể gây hạ HA.
3- Thế nào là tăng huyết áp?
HA lên xuống trong những điều kiện nhất định là bình thường. Tăng HA là khi HA của
bạn lúc nào cũng cao hơn mức bình thường lúc tim co bóp (tâm thu), và hoặc lúc tim
dãn ra (tâm trương).
HA được gọi là tăng khi >140/90mmHg sau khi đo lập đi lập lại nhiều lần và đúng cách.
Người ta không chẩn đoán tăng HA qua 1 lần đo. Khi người ta đo HA của bạn và thấy >140/90mmHg, thì

có thể bác sĩ sẽ yêu cầu bạn trở lại đo HA thêm hơn 2 lần nữa trong khoảng thời gian ít nhất là 4 tuần mới
có thể khẳng định là bạn có tăng HA hay không trừ khi đo 1 lần HA ³ 180/110mmHg hoặc có tổn thương
cơ quan đích ( tim, thận, não, mạch máu).
4- Huyết áp thấp có nguy hiểm không?
Một người từ lâu có HA=90/50mmHg vẫn làm việc bình thường, không có gì nguy hiểm.Một người lớn từ
lâu có HA = 130/80mmHg, nay vì lý do gì đó HA hạ xuống còn 90/50mmHg cần được khám.
5- Tại sao người ta lấy mốc 140/90mmHg là tăng. Tại sao phải hạ huyết áp?
Nó có lợi gì?
Từ nghiên cứu lớn về dịch tể (Framingham) thấy rằng những người tăng HA (³ 140/90mmHg ) bị tai biến
mạch máu não tăng 4 lần và suy tim tăng 6 lần so với người có HA kiểm soát bình thường.
Khi người tăng HA được kiểm soát HA tốt thì giảm được 35% - 40% nguy cơ ñoät quî, giaûm 20 – 25%
nguy cơ nhồi máu cơ tim và giảm > 50% nguy cơ suy tim.
6- Phân độ tăng HA
Để biết bệnh tăng HA nặng hay nhẹ, khi nào cần điều trị và khi nào cần điều trị tích cực, năm 2003, Liên
Ủy ban Quốc gia về tăng HA của Hoa Kỳ ( JNC) đưa ra phân độ ở người ³ 18 tuổi.
Loại
Huyết áp tâm
thu (mmHg)
Huyết áp tâm
trương
(mmHg)
Bình thường <120 <80
Tiền tăng
HA
120-139 80-89
Tăng HA
Giai đoạn 1 140-159 90-99
Giai đoạn 2 >160 >100
Tăng HA tâm thu đơn
thuần

>140 <90

7- Nhận biết bị tăng HA như thế nào?
{mosimage} Cách tốt nhất để biết bị bệnh tăng HA là đo HA đúng phương pháp bằng HA kế. Phương
pháp đo tại nhà (chính bạn tự đo hoặc người nhà) và đo tại phòng khám ( bác sĩ hoặc y tá đo).Cách đo
huyết áp:

Tình trạng bệnh nhân:
không hút thuốc lá hoặc uống café 15-30 phút trước khi đo.

Tư thế đo:
bệnh nhân nằm ngữa hoặc ngồi nghỉ 5 phút trước khi đo. Cánh tay đo để ngang
mức tim.

Trang bị:
túi hơi phải bao trọn chu vi cánh tay và 2/3 chiều dài cánh tay, nếu túi hơi nhỏ thị trị
số HA cao giả.

Phương pháp tiến hành:

+ Bơm nhanh túi hơi vượt quá trị số tâm thu 20-30mmHg (được nhận biết bằng mất mạch quay)
và xả túi hơi chậm 3mmHg/giây.
+ Chỉ số HA tâm thu là khi xuất hiện tiếng đập đầu tiên.
+ Chỉ số tâm trương là khi mất hẳn tiếng mạch đập.

8- Tại sao bị tăng huyết áp?
Khoảng 93-95% trường hợp tăng HA vẫn chưa biết được nguyên nhân. Loại tăng HA này gọi là tăng HA
nguyên phát. 5-7% còn lại là tăng HA thứ phát tức là có nguyên nhân ( ví dụ: bệnh thận, bệnh cường
giáp, hẹp eo động mạch chủ, hội chứng Cushing, dùng thuốc…). Nếu tìm được nguyên nhân và điều trị
triệt để nguyên nhân đó thì tăng HA có thể khỏi hẳn.

9- Hậu quả tăng huyết áp lên các cơ quan đích như thế nào?- Tim : gây dày thành
tâm thất trái, loạn nhịp sau đó dẫn đến suy tim, hẹp động mạch vành, thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim
Não: xuất huyết não, nhũn não, cơn thiếu máu não thoáng qua, sa sút trí tuệ- Thận: suy thận- Mạch máu:
phình và bóc tách động mạch chủ, tổn thương mạch máu đáy mắt.
10- Các nguy cơ của tăng huyết ápTăng HA nguyên phát là tăng HA không tìm được nguyên
nhân, nhưng có nhiều yếu tố có thể phối hợp với nhau để làm tăng HA:
Tuổi: tuổi càng cao tỉ lệ tăng HA càng cao : hơn 1/2 những người từ 60-69 tuổi và gần 3/4 những người
lớn hơn 70 tuổi bị tăng HA.
• Di truyền: cha, mẹ bị tăng HA sẽ có con có khả năng dễ tăng HA hơn
so với người khác.
• Giới tính: nam > 55 tuổi, nữ > 65 tuổi.
• Béo phì : làm tăng co mạch máu nên tăng HA, rối loạn chuyển hóa
mỡ. Người có chỉ số khối lượng cơ thể BMI (BMI =P/h2: P trọng
lượng cơ thể tính bằng kg, h: chiều cao tính bằng m) bằng 26 bị tăng
HA gấp 4 lần và tiểu đường gấp 6 lần so với người có BMI = 21.
• Tiểu đường- Hút thuốc lá : làm tim đập nhanh hơn, mạch máu co lại.
• Ít vận động
• Stress : có 2 loại stress, loại từ các áp lực bên ngoài như công việc,
cuộc sống gia đình và loại từ bên trong bản thân như trạng thái lo âu,
trầm cảm. Khi stress cơ thể sẽ phản ứng tăng nhịp tim và HA sẽ tăng
lên.
• Thói quen ăn mặn: làm giữ muối, nước gây tăng thể tích máu do đó tăng HA .

11- Làm thế nào để giảm và kiểm soát bệnh tăng huyết áp mà không cần đến
thuốc?
• Giảm cân : béo phì hoặc quá cân nếu giảm 10kg để BMI nằm trong khoảng 18,5-24,5 làm giảm
HA tâm thu 5-20mmHg.Chế độ ăn nhiều trái cây, rau, sản phẩm sữa ít mỡ bão hòa, ít mỡ toàn
phần làm giảm HA tâm thu 8-14mmHg.
• Giảm lượng muối ăn vào hàng ngày, không ăn quá 1 muỗng cà phê muối ( < 6g NaCl) mỗi ngày,
bao gồm cả lượng muối được nêm trong thức ăn và nước chấm.

• Vận động thể lực: tham gia vào các hoạt động thể lực vừa sức như đi bộ ít nhất 30 phút mỗi ngày
và mọi ngày trong tuần.
• Hạn chế hay uống rượu bia vừa phải : uống ít hơn 80ml rượu mạnh, 600ml bia và 250ml rượu
vang trong 1 ngày.

Bỏ thuốc lá.
• Hạn chế căng thẳng, nghỉ ngơi thư giãn, giải trí.
12- Khi nào thì bắt đầu dùng thuốc điều trị tăng huyết áp?
Sau khi đã dùng các biện pháp không dùng thuốc từ 3-6 tháng ( trừ khi đo HA >
180/110mmHg thì điều trị ngay) như trên mà HA bạn vẫn chưa hạ về mục tiêu, lúc này
dùng thuốc. Mục tiêu là HA < 140/90mmHg, nếu có đái tháo đường hay bệnh thận mãn
thì HA < 130/80mmHg.
Ngày nay có rất nhiều nhóm thuốc điều trị tăng HA, mỗi nhóm có cơ chế tác dụng khác nhau và thích hợp
với từng người bệnh khác nhau ( tuổi, bệnh kèm theo, tăng HA có gây tổn thương cơ quan đích nào
chưa ). Vì vậy bệnh nhân nên đến bác sĩ chuyên khoa để được khám và cho thuốc thích hợp, để bệnh
nhân được hưởng lợi nhiều nhất về bảo vệ tim mạch từ thuốc được cho.
Người bệnh cần điều trị lâu dài, liên tục nên cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa bác sĩ, bệnh nhân và gia
đình trong quá trình điều trị.Do điều trị lâu dài nên người bệnh cần hiểu về bệnh, tuân thủ điều trị và tái
khám đúng hẹn. Nên tham gia các chương trình sinh hoạt khoa học giữa các chuyên gia và bệnh nhân
bệnh tăng HA.
Cần theo chặt chẽ hướng dẫn của bác sĩ, không tự ý bỏ thuốc hoặc thay đổi thuốc, nếu có triệu chứng gì
lạ nên hỏi bác sĩ điều trị. Ngày nay có nhiều dạng thuốc kết hợp nhiều loại thuốc khác nhóm thành 1 viên,
chỉ dùng ngày 1 lần, nên người bệnh tuân thủ điều trị dễ dàng hơn.Trong khi dùng thuốc thì vẫn phải thực
hiện biện pháp không dùng thuốc.
13- Khi bị bệnh tăng huyết áp cần làm những xét nghiệm cơ bản gì?
1. Đếm số lượng hồng cầu trong máu
2. Đo lượng đường trong máu
3. Thử chức năng thận
4. Đo các thành phần mỡ trong máu
5. Đo điện tâm đồ

6. Chụp X quang tim phổi
7. Siêu âm tim nếu có điều kiện
8. Tổng phân tích nước tiểu
14- Nên có thái độ thế nào để sống tốt khi bị bệnh tăng huyết áp?
• Bắt đầu và tiếp tục điều trị ngay cả khi bạn không có triệu chứng khó chịu do tăng HA gây ra vì
tăng HA có thể dẫn đến những biến chứng nghiêm trọng nếu như không kiểm soát tốt.
• Việc kiểm soát HA tốt mang lại nhiều lợi ích quan trọng hơn nhiều so với vài tác dụng phụ tạm
thời do thuốc gây ra.Đừng nản chí vì có thể dùng thuốc suốt đời.Nên tái khám định kỳKhông tự
mua thuốc hạ HA uống
• Không chỉ uống thuốc khi HA tăng cao và ngưng thuốc khi HA về bình
thường.
• Không dùng lại toa thuốc cũ trong 1 thời gian dài không tái khám.

ĂN CHUỐI LÀM HẠ HUYẾT ÁP
Gần đây trường Đại học Kasturba ở Manipal thuộc phía Nam Ần Độ, các nhà
khoa học đã công bố một công trình khoa học làm giảm huyết áp bằng cách
điều trị cho bệnh nhân ăn chuối. Trên Tạp chí y khoa Ần Độ thường kỳ
(IMJCS) đã khẳng định chuối chín và chuối xanh có chứa những hoạt chất
sinh học giống như các loại hoạt chất ACE có trong thuốc giảm huyết áp
đang lưu hành trên thị trường thế giới. Nhóm các nhà khoa học tại Kasturba
đã phân tích thành phần của 6 loại chuối thông dụng được trồng tại nước
này và đưa ra kết luận: "Tất cả các loại trên đều có tính chất tương tự như
thuốc ACE mà trong đó ở chuối chín lại chứa hoạt chất này cao hơn hẳn
chuối xanh".
Trùng hợp một công trình nghiên cứu độc lập khác của các nhà khoa học
Mỹ thuộc trường Đại học y khoa John Hopkins, họ chứng minh rằng những
bệnh nhân cao huyết áp cứ mỗi ngày ăn 5 quả chuối thì huyết áp giảm
xuống 1/2 so với huyết áp ban đầu, cũng như dùng các viên thuốc giảm áp
ACE vậy, nhưng lại không xảy ra các phản ứng phụ. Người ta nhận thấy
trong một lượng chuối trên, khi sử dụng cho người bệnh có chứa đến 2,3mg

nguyên tố vi lượng Kalium, một khoáng chất đóng vai trò như dung dịch
điện phân trong phản ứng điện giải nhằm thải trừ Natrium ra khỏi cơ thể.
Sự tồn tại một hàm lượng lớn các muối vi lượng trên góp phần duy trì môi
trường chất lỏng cao trong cơ thể đó là nước đã tạo ra áp suất lớn cho hệ
tuần hoàn nói riêng cũng như toàn bộ cơ thể nói chung.
Đây là một bài thuốc cổ truyền đã có ở Ần Độ từ lâu đời, cho đến nay đã
được nền y học hiện đại chứng minh. Thật là kỳ diệu, chuối chữa cao huyết
áp lại rất hiệu nghiệm, mà ngày chỉ cần có hai quả chuối liên tục một tuần
đã làm giảm huyết áp xuống 10%.
Ngày nay trong các chế phẩm nhân tạo đang có hiệu lực điều trị bệnh cao
huyết áp vẫn là ACE, một thành phần lại chứa trong những quả chuối, song
những chất liệu ACE nhân tạo này không phải rẻ tiền mà quá trình dùng nó
còn xảy ra những phản ứng phụ và những tác dụng không mong muốn
trong điều trị người bệnh cao huyết áp như chóng mặt, mất thăng bằng
Theo các tài liệu thống kê đã thấy cứ 10 người bệnh đã xuất hiện 1 người
mắc bệnh cao huyết áp. Nếu tính đến lớp tuổi người già thì tỷ lệ lại càng
cao hơn có thể tới 1/3 số người mắc bệnh này.
Bởi vậy việc sử dụng chuối ăn để chữa bệnh cao huyết áp có hiệu quả đáng
tin cậy như vậy thật là tuyệt. Hy vọng mọi người áp dụng loại thực phẩm
dễ kiếm hàng ngày ở mọi nơi, mọi vùng, chữa bệnh cho mình đỡ biết bao
tốn kém và cũng làm giảm sự bào chế thuốc khỏi phải chi phí tốn kém
không cần thiết.
Sớm Điều Trị Bệnh Tiền Cao Huyết Áp
Bs Adnan I. Qureshi và những đồng nghiệp xuất bản kết quả nghiên cứu đăng trong báo Y Khoa
Stroke của Hội Tim Mạch Hoa Kỳ.
Khám phá bệnh nhân tiền cao máu tăng cao nguy cơ cơn đau tim (heart attack) và tăng cao nguy
cơ bệnh tim mạch gấp 1.7 lần so với những người bình thường không bị cao huyết áp.
Nếu chữa bệnh tiền cao máu ngay từ lúc đầu thì bệnh nhân có thể tránh cơn đau tim, 47%.
Kết quả cho thấy bây giờ không còn là lúc chỉ chữa tiền cao máu bằng cách khuyên nhủ bệnh
nhân như: kiểm soát cân lượng, tập thể dục thường xuyên, hay ăn uống kiêng cữ, mà phải mạnh

dạn trực tiếp điều trị bệnh tiền cao máu bằng thuốc.
(Stroke, August 2005, American Heart Association).
Chú Thích: Trong một nghiên cứu khác do Bs Heather A. Luska thuộc Ðại Học Y Khoa South
Carolina nghiên cứu 9,000 người trong thời điểm từ 1971 tới 1975, dựa theo tài liệu National
Health and Nutrition Examination Survey I, theo dõi 18 năm.
Kết quả cho thấy bệnh nhân tiền cao máu tăng cao nguy cơ bệnh tim mạch, 32%.
Những bệnh nhân bị tiền cao máu trong tình trạng áp xuất máu lên cao, tức là áp xuất tâm thu
cao từ 130 tới 139 mm thủy ngân hay áp xuất máu tâm trương cao từ 85 tới 89 mm thủy ngân.
Những bệnh nhân kể trên sẽ tăng cao nguy cơ bệnh tim mạch, 42%, so với những người không bị
bệnh cao máu. (Annals of Family Medicine, July 2005).
Bệnh nhân nào có áp xuất tâm thu cao hơn 120 mm thủy ngân tức là từ 120 tới 139 mm thủy
ngân hay áp xuất tâm trương trên 80 tức là từ 80 tới 89 mm thủy ngân, đều bị bệnh tiền cao huyết
áp.
Khi áp xuất máu lên cao hơn nữa, 140/90 trở lên, là bị bệnh cao máu (mild) thực thụ
Trong một nghiên cứu đăng trong báo New England Journal of Medicine, 354: 1685, 2006, cho
biết tiền cao huyết áp là dấu hiệu của bệnh cao huyết áp và sẽ tăng cao nguy cơ bệnh tim mạch
nếu không chữa trị. Theo dõi bệnh nhân trong 4 năm cho thấy 2/3 bệnh nhân bị tiền cao máu mà
không chịu điều trị. Điều trị tiền cao máu vơí thuốc candesartan thích hợp cho bệnh nhân và
giảm biến chứng cao huyết áp.
Trong một nghiên cứu khác tại Đại Học Y Khoa North Carolina, bao gồm 9000 người vừa đàn
ông và đàn bà. Theo dõi 11.6 năm. Kết quả cho thấy bệnh nhân tiền cao máu không điều trị tăng
cao bệnh tim mạch gấp 2.5 người bình thường. Kết quả đăng trong báo American Journal of
Medicine, February 2006.
Bài này giúp những ngươì còn trẻ không để ý vấn đề cao huyết áp hoặc tiền cao huyết áp, nên tự
mình chăm lo sức khỏe của mình. Nhất là những người còn trẻ bị chớm cao huyết áp, tức là ở
tình trạng tiền cao máu, đã không để ý vấn đề điều trị. Có điều ngạc nhiên là ngay cả khi biết
chính mình bị bệnh cao huyết áp nhưng không đi gặp bác sĩ, không chữa trị. Có một bệnh nhân
mới, lần đầu tiên tơí phòng mạch, 40 tuổi, người Việt, biết mình bị huyết áp cao từ 10 năm nay
mà không đi gặp bác sĩ điều trị. Đo áp xuất hôm nay rất cao 215/125. Tuần trước cũng có một
bệnh nhân người Mỹ, tuổi 33, biết mình bị cao huyết áp từ 3 năm qua, cũng không chữa trị. Bệnh

nhân cũng lần đầu tiên tới phòng mạch, cho biết: sở làm bắt anh ta phải chữa bệnh cao máu trước
khi cho việc làm. Mới 33 tuổi mà huyết áp đã lên tới 160/100
Y Dược Ngày Nay

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×