Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Âm điệu trong thơ Hàn Mặc Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.87 KB, 4 trang )

Âm điệu trong thơ Hàn Mặc Tử
. Lý Toàn Thắng
Bình Định, Tử… Lần đầu tiên tôi đang trò chuyện với [URL="http Quy Nhơn, Ghềnh
Ráng… Lần đầu tiên tôi đang đứng trước mộ Hàn
Mạc://www.binhdinhffc.com/diendan/viewtopic.php?f=29&t=4721"]Dzũ Kha [/URL]-
người dùng bút lửa lưu giữ thơ Hàn Nhưng lởn vởn trong đầu óc tôi lại đang là một
sự hồi tưởng, chuyện đã mươi mười lăm năm trước: một vị Giáo sư - Thầy học của
tôi, một nhà phê bình văn học khả kính, khi đó có bảo tôi rằng theo ông nghĩ Đây thôn
Vĩ Dạ và Mùa xuân chín của Hàn Mạc Tử là hai bài thơ “trong sáng nhất” của nền thi ca
Việt Nam. (Và tôi đã luôn tin vào điều ấy)… Vậy sao bây giờ tôi không thử bàn luận về
nó, từ chỗ đứng ngôn ngữ học của tôi? Cái đẹp của văn chương cũng rất cần những
sự chứng minh khoa học… * Về Hàn Mạc Tử người ta đã viết khá nhiều, nhưng có điều
dường như mọi người chỉ chăm chú tới cái khác lạ trong nội dung và cảm hứng thơ
của ông - từ những yếu tố trữ tình, tượng trưng, rồi đến siêu thực, đến tôn giáo -
những cái làm nên một Hàn Mạc Tử “chỉ có một, thật” (như Chế Lan Viên từng viết). Ít
ai bàn sâu, bàn kỹ về cái khác lạ trong nghệ thuật thơ ông, thơ Bảy chữ, thơ Năm
chữ… và càng ít bàn về nhạc tính, về âm điệu trong những dòng thơ đầy cảm giác của
ông. Đó là một điều đáng tiếc; vì đánh giá cuộc cách mạng ngôn từ (hay cách tân) của
Thơ Mới rất nhiều nhà phê bình văn học cũng như những nhà thơ tên tuổi đều cho
rằng: khác hẳn “Thơ Cũ”, Thơ Mới rất giàu nhạc điệu; sự giàu có ấy là do Thơ Mới đã
phản kháng lại với những thi điệu khuôn thước theo Niêm, Luật, Vận, Đối… của Thơ
Cũ, để nhà thi sĩ có thể chỉ thả hồn mình theo cái nhạc cảm huyền diệu riêng của nội
tâm, luôn chuyển động, biến hoá, khi thiết tha khi bình lặng, khi choáng ngợp khi
mong manh… Trong đời thơ ngắn ngủi và thương đau của Hàn Mạc Tử, Đây thôn Vĩ
Dạ và Mùa xuân chín là hai bài thơ Bảy chữ hoàn toàn “tỉnh” táo, không hề “điên”
loạn, đang còn nằm trong cái quỹ đạo thi pháp chung của Thơ Mới Bảy chữ bấy giờ.
Thơ Mới Bảy chữ vốn phát xuất từ thơ Đường Thất ngôn với rất nhiều luật lệ về Thể,
Niêm, Vận, Nhịp…, gắn với những yêu cầu về Bằng-Trắc Cao-Thấp của các Thanh, với
sự chấp thuận “Nhất Tam Ngũ bất luận, Nhị Tứ Lục phân minh”. Vì thế, muốn thấy
được những gì cách tân ở các thi sĩ của phong trào Thơ Mới nói chung và Hàn Mạc Tử
nói riêng, ta phải trở về với âm luật thơ Thất ngôn tiếng Việt. Một bài thơ Đường Thất


ngôn bát cú có 56 tiÕng, B»ng Tr¾c ngang nhau ®Òu 28 tiÕng, và tuy có 08 câu/dòng
thơ nhưng chỉ có 04 mô hình thanh điệu Bằng Trắc, đó là: - mô hình I: B B T T T B B -
mô hình II: T T B B T T B - mô hình III: B B T T B B T - mô hình IV: T T B B B T T Bốn mô
hình này (với ít nhiều biến cách ở các vị trí 1, 3, 5) được bố trí trong một bài thơ Thất
ngôn bát cú, bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, như sau: - Câu 1: mô hình
II “T T B B T T B” Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà - Câu 2: mô hình I “t/B B b/T T T B B”
Cỏ cây chen lá đá chen hoa - Câu 3: mô hình III “B B T T B B T” Lom khom dưới núi
tiều vài chú - Câu 4: mô hình II “T T B B T T B” Lác đác bên sông chợ mấy nhà - Câu 5:
mô hình IV “T T B B B T T” Nhớ nước đau lòng con quốc quốc - Câu 6: mô hình I “B B
T T T B B” Thương nhà mỏi miệng cái gia gia - Câu 7: mô hình III “B B T T B B T” Dừng
chân đứng lại trời, non, nước - Câu 8: mô hình II “T T B B b/T T B” Một mảnh tình riêng
ta với ta Như vậy, ở đây bốn mô hình Bằng Trắc đã không được sử dụng ngang nhau,
mà có sự chênh lệch như sau: - 02 lần dùng mô hình I (câu thứ 2 và thứ 6) - 03 lần
dùng mô hình II (câu thứ 1, thứ 4 và thứ 8) - 02 lần dùng mô hình III (câu thứ 3 và thứ 7)
- chỉ 01 lần dùng mô hình IV (câu thứ 5) Tuy nhiên Qua Đèo Ngang của Bà Huyện
Thanh Quan là một bài thơ Thất ngôn bát cú làm theo “luật Trắc”. Nếu làm theo “luật
Bằng” như ở bài “Tự tình” (Canh khuya) của Hồ Xuân Hương thì tỷ lệ nói trên sẽ thay
đổi như sau: - 03 lần dùng mô hình I (câu thứ 1, thứ 4 và thứ 8) - 02 lần dùng mô hình II
(câu thứ 2 và thứ 6) - chỉ 01 lần dùng mô hình III (câu thứ 5) - 02 lần dùng mô hình IV
(câu thứ 3 và thứ 7) Dù vậy, nhìn chung lại, ta vẫn có thể thấy rằng với thơ Thất ngôn
bát cú hai mô hình I và II có vần Bằng là nổi trội hơn, được ưa dùng hơn (05 câu) so
với hai mô hình III và IV mang vần Trắc (03 câu). Ta cũng cần chú ý rằng: mỗi khổ thơ
Bảy chữ bốn câu của Thơ Mới, về hình thức, giống như một bài Thất ngôn tứ tuyệt,
cũng cã luật Bằng Trắc, có kiểu Vần, loại Nhịp, Điều này không có gì lạ, bởi vì mỗi
khổ thơ Bảy chữ bốn câu (cũng như nguyên một bài Thất ngôn tứ tuyệt), sự thực, đa
phần chỉ là những cách thức cắt khúc khác nhau từ những bài Thất ngôn bát cú. Bây
giờ ta đã có thể xem xét thơ Bảy chữ của Hàn Mạc Tử. Nhưng trước hết, ta hãy thử
nhìn sang Huy Cận, và làm một phép so sánh giữa hai ông. Điều này không phải vì câu
chuyện chân tài hay ngôi thứ trong chiếu thơ; đơn giản là một lẽ khác: “Chân lý chỉ
được nhận ra trong sự so sánh” (Ngạn ngữ Âu châu). Với Huy Cận, ta sẽ chọn Tràng

giang để so sánh với Đây thôn Vĩ Dạ, lý do là vì: a) Đây cũng là một bài thơ Bảy chữ có
khổ thơ mở đầu vần Trắc và gieo vần cách như Đây thôn Vĩ Dạ; b) Tràng giang cũng
đẹp và buồn như Đây thôn Vĩ Dạ; c) Chúng đều là những bài thơ được bình chọn là
tiêu biểu của Hàn Mạc Tử và Huy Cận, thuộc vào loại mươi bài hay nhất của Thơ Mới.
[/SIZE]
Tiếp theo, vì khuôn khổ hạn hẹp của một bài báo, ta sẽ thử chọn khổ mở đầu của hai
bài thơ, để đối chiếu. Không khó khăn lắm, ta cũng có thể nhận ra những điều khác
biệt sau đây. Trong khổ mở đầu Tràng giang, Huy Cận đã sử dụng tới cả bốn mô hình
Bằng Trắc nêu trên: - mô hình IV: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp - mô hình I:
Con thuyền xuôi mái nước song song - mô hình III: Thuyền về nước lại sầu trăm ngả -
mô hình II: Củi một cành khô lạc mấy dòng Cách sắp xếp bốn mô hình thanh điệu ở
khổ mở đầu này của Huy Cận giống như ở nhiều bài Thất ngôn tứ tuyệt mà ta đã gặp,
vốn được cắt khúc ra từ bốn câu giữa của bài Thất ngôn bát cú, kiểu như bốn câu sau
trong Tự tình của Hồ Xuân Hương: - Câu 3: mô hình IV Chén rượu hương đưa say lại
tỉnh - Câu 4: mô hình I Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn - Câu 5: mô hình III Xiên
ngang mặt đất rêu từng đám - Câu 6: mô hình II Đâm toạc chân mây đá mấy hòn Với
Huy Cận, dùng tiếng “gợn” (tiếng “sóng” và tiếng điệp), ông đã chọn cho Tràng giang
một Thể Trắc: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Trong cả bốn câu thơ, 28 tiếng,
của khổ thơ, Huy Cận chỉ biến cách duy nhất có 01 lần (theo luật “Nhất Tam Ngũ bất
luận”) ở câu thứ hai, tiếng thứ ba - lẽ ra theo âm luật lý tưởng của thơ Thất ngôn ở đây
phải là một thanh Trắc, nhưng ông lại đặt một thanh Bằng (xuôi): Con thuyền xuôi mái
nước song song Nghĩa là, nhìn chung, về âm luật, Huy Cận rất “kinh điển” khi làm thơ
Bảy chữ. Cái vẻ kinh điển về hình thức ngôn từ ấy có lẽ đã góp một phần đáng kể
khiến cho Tràng giang thấm đẫm chất Đường thi, đẹp cổ kính và buồn u hoài, khác hẳn
với Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử đẹp một vẻ đẹp khác, tươi sáng hơn, và buồn một
nỗi buồn khác, thanh trong hơn. Quả vậy, so với Huy Cận, trong khổ đầu của bài Đây
thôn Vĩ Dạ Hàn Mạc Tử chỉ dùng có 02 mô hình Bằng Trắc II và III, đồng thời ông đã
phá cách và biến cách tới hai trong bốn câu thơ, với ba vị trí (những tiếng có gạch
dưới) không còn tuân theo âm luật lý tưởng của thể thơ Thất ngôn: - mô hình III ở câu
thơ thứ nhất và thứ ba: + biến thể 1(phá cách/thất luật): B B b/T b/T B B T Sao anh

không về chơi thôn Vĩ ? + biến thể 2 (hợp cách/đúng luật): B B T T B B T Vườn ai mát
quá xanh như ngọc - mô hình II ở câu thơ thứ hai và thứ tư: + biến thể 1(biến cách):
b/T T B B T T B Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên + biến thể 2 (hợp cách): T T B B T T
B Lá trúc che ngang mặt chữ điền Cái cách điệp lại hai mô hình thanh điệu thế này là
một sáng tạo tân kỳ của Hàn Mạc Tử (người vốn rất am hiểu những luật lệ gò bó của
Đường thi) khi tạo lập khổ thơ, ông đã không theo cái lẽ thông thường của thơ Thất
ngôn tứ tuyệt vốn chỉ có 04 con đường cắt khúc từ bài Bát cú: a) Cắt khúc bốn câu
đầu (1, 2, 3, 4), với 03 khuôn Bằng Trắc. b) Cắt khúc bốn câu cuối (5, 6, 7, 8), với 04
khuôn Bằng Trắc. c) Cắt khúc bốn câu giữa (3, 4, 5, 6), với 04 khuôn Bằng Trắc, như
Huy Cận đã làm. d) Cắt khúc hai câu đầu và hai câu cuối (1, 2, 7, 8), với 03 khuôn. Bằng
Trắc. Hàn Mạc Tử cũng rất đặc biệt ở câu mở đầu khổ thơ. Ông biến cách đặt thanh
Bằng vào tiếng thứ ba (không), và nhất là ông đã táo bạo phá cách (thất lệ) ở tiếng thứ
tư: đặt một thanh Bằng (về) thay vì theo thi luật vị trí này phải là một thanh Trắc (theo
lệ “Nhị Tứ Lục phân minh”). Giá sử rằng đã từng thoáng qua trong tâm trí ông một
thanh Trắc như thế (để đúng luật thơ!): Sao anh không ghé chơi thôn Vĩ ? hay giá sử
rằng đã từng thoáng qua trong tâm trí ông một thanh Bằng cao hơn: Sao anh không ra
chơi thôn Vỹ ? (từ Quy Nhơn ra Huế) hay giá sử xuôi tai hơn, nhưng… tầm thường
hơn: Thôn Vĩ sao anh không về chơi ? Nhưng đó sẽ là một tình ý khác, một thanh âm
khác… và đó không thể là cái cách của ông. Ông phải như Thôi Hiệu kia, phá luật trong
Hoàng Hạc lâu: Tích nhân dĩ thừa Hoàng hạc khứ Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản, Bạch vân thiên tải không du du (Người xưa cưỡi
hạc đi đâu Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ Hạc vàng đi mất từ xưa Nghìn thu mây
trắng bây giờ còn bay) (Tản Đà dịch) Chính là nhờ sự thất lệ tài hoa ấy của Hàn Mạc Tử
mà mở đầu Đây thôn Vĩ Dạ ta đã có được một câu thơ Bảy chữ tới những 06 thanh
Bằng, nghe thực dịu dàng, êm ái. Hơn thế nữa, không giống Huy Cận dùng Thể Trắc
cho khổ thơ của mình, với câu mở đầu này Hàn Mạc Tử chọn Thể Bằng, nhờ ở tiếng
thứ hai “anh” (tiếng thứ nhất “Sao” và tiếng thứ sáu “chơi”) - nó tạo đà cho một loạt
thanh Bằng tiếp theo trước khi kết thúc bởi thanh Trắc vút cao ở “Vĩ”: Sao anh không
về chơi thôn Vĩ ? Thể Bằng ấy, ở Hàn Mạc Tử, nó cũng không hẳn là Thể Bằng cộng
với Vần Bằng, có phần đều đều tĩnh tại, như ở Hồ Xuân Hương trong bài thất ngôn tứ

tuyệt Mời trầu: Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi hay ở Thâm Tâm: Đưa người ta không
đưa qua sông
Về mặt ngôn từ, câu thơ của Hàn Mạc Tử cũng thực giản dị, nó giống như một câu hỏi
rất tự nhiên, trong trẻo và hiện đại, mà ta vẫn gặp bây giờ trong cuộc sống thường
nhật của ta: - Sao anh không đi nghỉ Cửa Lò? - Sao anh không về thăm quê Bác? Bây
giờ, nếu ta thử đặt sóng đôi hai câu thơ mở đầu của Đây thôn Vĩ Dạ và của Tràng
giang, ta sẽ thấy âm hưởng của chúng rất khác nhau: - Sao anh không về chơi thôn
Vĩ ? - Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Nếu ta dùng một lược đồ để biểu diễn ước
lệ cái âm điệu Bằng Trắc và cái âm vực Cao Thấp của hai câu thơ ấy, ta sẽ thấy rõ hơn,
bằng cảm quan thị giác, cái thanh thoát của Hàn Mạc Tử đối lại với cái trúc trắc của
Huy Cận: + câu mở đầu Đây thôn Vĩ Dạ: Sao anh không về chơi thôn Vĩ + câu mở đầu
Tràng giang: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Mở rộng hơn sự so sánh, ta có thể
thêm vào đây hai câu thơ mở đầu những bài thơ rất hay của Chế Lan Viên và Xuân
Diệu; song cái cảm quan ấy về sự trong sáng và u tối hình như không có gì thay đổi
trong ta - rõ một bên là Đây thôn Vĩ Dạ và Thu, rõ một bên khác là Tràng giang với
Nguyệt cầm: - Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? - Chao ôi ! Thu đã tới rồi sao ! (Chế Lan
Viên) - Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp - Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
(Xuân Diệu) Điều này không có gì là lạ; cổ nhân xưa khi nói về việc thẩm âm các thanh
từng đã chỉ giáo rằng: + thanh Bằng (Bình thanh) thì uyển chuyển du dương, như con
đường bằng phẳng, (nghe) buồn nhưng êm ả; + thanh Trắc thì không du dương uyển
chuyển, như con đường mấp mô lên xuống, trong đó: Khứ thanh (Sắc, Nặng) thì nghe
buồn nhưng trong mà xa; Thượng thanh (Hỏi, Ngã) thì nghe mạnh, đẹp và cao; Nhập
thanh (Sắc, Nặng trong các tiếng có âm cuối là các phụ âm -p,- t,- c,- ch ) thì nghe
ngắn, thẳng mà gấp gáp, thúc dục. Đem cái ý ấy của cổ nhân mà soi vào hai khổ thơ
của Huy Cận và Hàn Mạc Tử, ta có thể ít nhiều thấy được sự khác nhau về thanh âm
nhạc điệu của chúng: + Khổ thơ mở đầu của Tràng giang: có 15 tiếng mang thanh
Bằng, và 13 tiếng mang thanh Trắc trong đó Thượng thanh: 02 (Hỏi, không có Ngã),
Khứ thanh: 06 (Sắc: 03, Nặng: 03), Nhập thanh: 05 (Sắc: 02, Nặng: 03). + Khổ thơ mở
đầu của Đây thôn Vĩ Dạ: có 17 tiếng mang thanh Bằng, và 11 tiếng mang thanh Trắc
trong đó Thượng thanh: 02 (Ngã, không có Hỏi), Khứ thanh: 05 (Sắc: 05, không có

Nặng), Nhập thanh: 04 (Sắc: 02, Nặng: 02). Sự khác nhau ấy, tuy nhiên, sẽ trở nên rõ
ràng hơn, nếu bây giờ ta xem xét thêm một phương diện khác của thanh điệu tiếng
Việt: âm vực thấp cao của chúng. Truyền thống Từ chương và Thi pháp xưa thường
nói đến những phẩm chất âm học của các thanh như: Đục (Trọc) - Trong (Thanh),
Bổng (Dương) - Chìm (Ức),… vốn đều có liên quan tới độ Cao (Phù) - Thấp (Trầm) của
thanh. Theo tiêu chí này, sáu thanh tiếng Việt chia làm hai nhóm: nhóm Cao gồm các
thanh Ngang (không dấu), Ngã, Sắc, và nhóm Thấp gồm: Huyền, Hỏi, Nặng. Nói chung,
thanh Cao thường bổng và trong; thanh Thấp thường trầm và đục. Khổ thơ đầu của
Đây thôn Vĩ Dạ có 17 tiếng Bằng thì tới 12 tiếng là thanh Cao, chỉ 05 tiếng là thanh
Thấp; nhờ vậy âm hưởng của nó nghe có phần “trong” hơn, “bổng” hơn khổ thơ đầu
của Tràng giang với 15 tiếng Bằng trong đó 07 tiếng là thanh Cao và 08 tiếng là thanh
Thấp (một tỷ lệ quân bình). Mặt khác, trong số 11 tiếng Trắc của khổ thơ đầu Đây thôn
Vĩ Dạ có tới 09 tiếng là thanh Cao (07 Sắc, 02 Ngã) và chỉ 02 tiếng là thanh Thấp (toàn
Nặng); nhờ vậy âm hưởng của nó nghe có phần “cao” hơn, “xa” hơn khổ thơ đầu của
Tràng giang vốn có 13 tiếng Trắc - 05 tiếng là thanh Cao (toàn Sắc: 5) và tới 08 tiếng là
thanh Thấp (06 Nặng, 02 Hỏi). Gộp chung lại, bức tranh toàn cảnh về độ Cao-Thấp của
các thanh ở mỗi khổ thơ là như sau: khổ thơ đầu của Tràng giang có 12 tiếng là thanh
Cao và tới 16 tiếng là thanh Thấp, rất khác so với khổ thơ đầu của Đây thôn Vĩ Dạ chỉ
có 07 tiếng là thanh Thấp và tới 21 tiếng là thanh Cao. Sự chênh lệch này hẳn là một
nguyên nhân quan trọng tạo ra cái nhạc cảm trong sáng, thanh thoát của Đây thôn Vĩ
Dạ và u ẩn, nặng nề ở Tràng giang. Để kiểm chứng cho nhận định vừa nêu, ta có thể
tính toán thêm các tiếng Bằng-Trắc Cao-Thấp ở hai khổ thơ thứ hai và thứ ba của Đây
thôn Vĩ Dạ, và thật đáng kinh ngạc: cấu trúc thanh điệu của chúng không có gì khác
với khổ mở đầu. Cụ thể, khổ thơ thứ hai: Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước
buồn thiu, hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay
khổ này có 16 tiếng mang thanh Bằng, 12 tiếng mang thanh Trắc; và có tới 21 tiếng là
thanh Cao, trong khi chỉ có 07 tiếng là thanh Thấp (y như ở khổ mở đầu). Khổ thơ thứ
ba: Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương
khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà? khổ này có 17 tiếng mang thanh Bằng, 11
tiếng mang thanh Trắc; và cũng có tới 21 tiếng mang thanh Cao, trong khi chỉ có 07

tiếng mang thanh Thấp (cũng y như ở khổ thứ hai và khổ mở đầu). Tổng quan lại, cả
bài Đây thôn Vĩ Dạ với 03 khổ thơ, 12 dòng, 84 tiếng, ta có: - 50 tiếng mang thanh
Bằng, 34 tiếng mang thanh Trắc; - 63 tiếng là thanh Cao, 21 tiếng là thanh Thấp. Cái tỷ
lệ ấy tự nó đã nói lên vì sao Đây thôn Vĩ Dạ đẹp mà buồn, buồn như nhạc cổ điển nghe
trong chiều mưa, những âm hưởng nền du dương êm ả của các thanh Bằng và trên cái
nền đó là những âm sắc Cao, trong trẻo, thiết tha. Và cái tỷ lệ ấy, tôi thiết nghĩ, cũng
nói hộ cho tài hoa Hàn Mạc Tử, cho sự dụng công, rất dụng công của ông… * Tôi đang
lang thang trong khu trại phong Tuy Hoà. Bờ biển, những bức tượng bán thân Con
đường nho nhỏ, những ngôi nhà nho nhỏ; những người đàn ông và đàn bà khuyết tật
vì bạo bệnh… Tôi ngồi xuống một chiếc ghế đá, nhắm mắt lại, hít một hơi thật sâu và
bắt đầu thiền định. Mươi phút sau, bằng tâm tưởng, tôi trò chuyện với thi sĩ họ Hàn…
Đêm đó, theo những gì được ông mách bảo, tôi đã phác hoạ rất nhanh những điều
chính yếu nhất cho bài báo này - bài báo mà tôi hằng mong được viết từ lâu…

×