Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Bài 1: NUÔI CẤY MÔ, TẾ BÀO THỰC VẬT ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 13 trang )

Bài 1:
NUÔI CẤY MÔ, TẾ BÀO THỰC VẬT
I. Định nghĩa :
Nuôi cấy mô, tế bào thực vật là sự nuôi cấy in vitro: tế bào đơn hoặc mô hay cơ
quan… trong điều kiện vô trùng.
II. Sơ lược về nuôi cấy mô
1. Phương pháp khử trùng môi trường nuôi cấy, dụng cụ thủy tinh và dụng
cụ cấy:
Các môi trường nuôi cấy mô thực vật, dụng cụ thủy tinh được khử trùng bằng
nhiệt ẩm bởi autoclauve ở 1210C, áp suất 1,05kg/cm3. Thời gian khử trùng phụ
thuộc vào thể tích của môi trường trong vật chứa.
Dụng cụ cấy bằng kim loại được khử trùng bằng nhiệt khô trong tủ sấy từ
130-1700C từ 2-4 giờ. Trong khi cấy, các dụng cụ cấy được đốt nóng bởi đèn cồn
hoặc máy.
b. Khử trùng phòng nuôi cấy, tủ cấy:
Phòng nuôi cấy mô thường được khử trùng bằng tia cực tím (UV) khi không
có người trong phòng. Ngoài ra, phòng thí nghiệm có thể được xông bằng
folmaldehyde kết hợp với KMnO4 và được trung hòa bởi NH3.
Tủ cấy được khử trùng bằng cách mở dòng khí liên tục, lau các bề mặt tủ cấy
bằng cồn 700, bật đèn UV từ 15-20 phút trước khi cấy.
c. Khử trùng mô thực vật
Các mô thực vật được rửa sạch bằng xà phòng cho thật sạch; rửa dưới vòi
nước chảy cho hết xà phòng. Sau đó, mô cấy ngâm trong cồn 700 3 phút. Mô thực
vật được ngâm trong dung dịch khử trùng canxihypocloride 10% trong 15 phút.
Rửa nước cất vô trùng 3 lần trong tủ cấy.
d. Kiểm soát sự nhiễm khuẩn và nấm trên môi trường nuôi cấy
Sau khử trùng, môi trường nuôi cấy được giữ từ 5-7 ngày để theo dõi sự phát
triển của vi khuẩn và nấm mốc. Sau thời gian đó, các môi trường mới được đưa
vào cấy mẫu.
2. Cách tiến hành
a. Môi trường nuôi cấy:


Có rất nhiều loại môi trường nuôi cấy mô, phổ biến nhất là môi trường MS,
N6, SH, AA. Môi trường nuôi cấy thường được pha với nồng độ đậm đặc – gọi
là dung dịch mẹ hay dung dịch Stock- hơn so với lượng cần dùng trong 1 lít để
khỏi mất thời gian pha chế nhiều lần.
Môi trường MS:
Đo pH 5,8; bổ sung đường 30g/l; agar 6-7 g/l. Nấu môi trường cho tan agar.
Đổ môi trường vào ống nghiệm hoặc erlen. Đậy miệng ống nghiệm hoặc erlen
bằng bông không thấm hoặc giấy nhôm, dùng giấy dầu không thấm nước đậy lên
trên.
Đem hấp vô trùng các ống nghiệm, erlen có chứa môi trường bằng nồi hầp vô
trùng autoclauve nhiệt độ 1210C, áp suất 1,2atm trong 15-20 phút.
0.1mg/l NAA (pha trong NAOH 1N).
2.5 mg/l BA (pha trong NAOH 1N).
b. Thí nghiệm:
Đối tượng nuôi cấy là nụ của hoa cúc.
Chọn các nụ (10 nụ) không non quá, cũng không già quá, cho vào Erlen, rửa
bằng xà phòng, rửa bằng nước máy nhiều lần cho sạch.ngâm trong cồn 3 phút.
Gạn sạch hết cồn, tiếp tục ngâm trong dung dịch khử trùng canxihypocloride 10%
trong 15 phút.Đem mẫu vào phòng cấy mô.
Trước khi tiền hành cấy trên tủ cấy vô trùng, phải khư trùng 2 tay người cấy
bằng cồn 700 đưa Erlen chứa chồi ngủ vào tủ cấy, bật đèn cồn lên, vô trùng đĩa
Perti bằng đèn cồn. Dùng kẹp đã vô trùng lấy các mẫu chồi cho vào đĩa Petri, cắt
bỏ phần vỏ nụ bên ngoài bằng dao cắt vô trùng, xẻ đôi nụ ra, rồi dùng kẹp đưa nụ
đã cắt vào ống nghiệm, bịt kín miệng ống nghiệm sau khi cấy bằng bông gòn. Cứ
như vậy cho đến khi cấy hết 5 nụ vào 5 ống nghiệm, đặt nuôi trong điều kiện
270C, thời gian chiếu sáng 16giờ/ngày; độ ẩm 80%. Giữ trong 5-7 ngày tiến hành
quan sát sự phát triển của nụ và kiểm tra sự nhiễm khuẩn và nấm trên môi trường
nuôi cấy.
III. Kết quả thí nghiệm :
Hình: ống nghiệm nuôi cấy mô

Kết quả:
• ống sống: 3
• ống chết: 1
• ống nhiễm: 1
IV. Nhận xét và giải thích kết quả :
- Trong 5 ống nghiệm có 3 ống sống, 1 ống chết, trong đó có 1 ống bị nhiễm.
- Mẫu chết là do : Thao tác làm thí nghiệm, que cấy quá nóng, mẫu quá non
nhưng khử trùng trong canxi hypocloride 10% quá lâu, khử trùng mẫu không tốt
làm mẫu bị tổn thương. Ngoài ra còn nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến quá trình
nuôi cấy như: môi trường nuôi cấy, điều kiện nuôi cấy
- Mẫu bị nhiễm là do : Thao tác làm thí nghiệm trong quá trình cấy, dụng cụ cấy
và mẫu cấy chưa được vô trùng tuyệt đối.
V. Sơ lược về hoa cúc :
Tên khoa học Chrysanthenum họ cúc (Compositeae) composite: có nghĩa là
hợp lại. Để giải thích một bông hoa cúc vốn gồm nhiều hoa nhỏ hợp lại trên một
cuống hoa, hình thành hoa tự đầu trang mà mỗi cánh thực chất là một bông hoa,
cây hoa cúc có nguồn gốc từ Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và một số nước
Châu Âu (nó được người Trung Quốc, Nhật Bản và các cụ ta xưa rất quý trọng, coi
nó những người bạn tâm tình, một thứ hoa quân tứ, dáng hoa đẹp, mùi thơm dịu và
kín đáo, thơm cả lá và cành.
Hoa của cây cúc được gọi là “ head” (đầu). Đó là một khối bao gồm nhiều hoa
đơn chụm vào nhau trông giống như một hoa đơn nở. Một khối lá bắc(bract) màu
xanh chen chúc bao quanh hoa đầu. Hoa đầu lại có vòng hoa phía ngoài(chiếc hoa
tỏa tia = hoa hình môi), phân biệt với mắt lồi phía bên trong hoa về hình dạng và
màu sắc(chiếc hoa hình đĩa = hoa hình ống).
Có khoảng 600 loại hoa cúc với hình dáng, kích thước, màu sắc khác nhau
Họ Cúc (danh pháp khoa học: Asteraceae hay Compositae). Họ hoa cúc được chia
ra làm 3 bộ lớn:
- Heliantheceae (còn được gọi là họ hướng dương)
- Lactuceae

- Senecionceae
1. Đặc điểm sinh học cây hoa cúc :
Lá thường là lá đơn không có lá kèm, mọc so le nhau, bản lá xẻ thùy lông chim,
phiến lá mềm mỏng có thể to hay nhỏ, màu sắc xanh đậm hay nhạt phụ thuộc vào
từng giống. Mặt dưới phiến lá bao phủ một lớp lông tơ, mặt trên nhẵn, gân hình
mạng. Trong một chu kì sinh trưởng cây có từ 30-50 lá trên thân.
Cây thuộc thân thảo nhỏ, có nhiều đốt giòn dễ gãy càng lớn càng cứng, cây dạng
đứng hoặc bò. Kích thước thân cao hay thấp, to hay nhỏ, cứng hay mềm phụ thuộc
vào từng giống và thời vụ trồng. Những giống nhập nội thân thường to, mập,
thẳng và giòn, ngược lại những giống Cúc dại hay giống cổ truyền Việt Nam thân
nhỏ mảnh và cong. Thân có ống tiết nhựa mủ trắng, mạch có bản ngăn đơn.
Rễ của cây hoa Cúc là loại rễ chùm, phần lớn phát triển theo chiều ngang, phân bố
ở tầng đất mặt từ 5-20cm. Kích thước các rễ trong bộ rễ Cúc chênh lệch nhau
không nhiều, số lượng rễ rất lớn do vậy khả năng hút nước và dinh dưỡng rất
mạnh. Cúc chủ yếu trồng bằng nhân vô tính nên các rễ không phát sinh từ mầm rễ
của hạt mà từ những rễ mọc ở mấu của thân (gọi là mắt) ở những phần ngay sát
mặt đất.
2. Một Số Nghiên Cứu :
Hoa cúc thường được dùng làm dịu căng thẳng thần kinh và giúp ngủ ngon vì
thế nên uống trà hoa cúc cùng với bữa ăn hàng ngày.
Các nhà khoa học đã nghiên cứu uống trà hoa cúc giúp kiểm soát bệnh tiểu
đường bằng cách ngăn ngừa những biến chứng phức tạp của căn bệnh này và
chống lại sự tăng đường huyết - một trong những dấu hiệu của bệnh tiểu đường.
Các nhà nghiên cứu đã làm thí nghiệm để phân tích ảnh hưởng của trà hoa cúc với
những con chuột mắc bệnh tiểu đường type 2. Những con chuột này không đủ
hormon insulin vì thế lượng đường trong máu của chúng không thể điều hoà được.
Sau đó, những con chuột này được uống trà hoa cúc với một lượng vừa phải trong
3 tuần, mức đường huyết giảm tới 1/4 lần so với trước khi chưa uống trà.
Từ thời xa xưa người Ai Cập, Hi Lạp và La Mã đã sử dùng hoa và lá của hoa
cúc để làm thuốc chữa bệnh. Còn ngày nay, các nhà khoa học ở trường ĐH

Aberystwyth Anh và trường Toyama Nhật Bản đang nghiên cứu phương pháp
chiết xuất tinh chất hoa cúc làm dược phẩm chữa bệnh tiểu đường.
Bài 2:
HẠT NHÂN TẠO
1. Định nghĩa :
Hạt nhân tạo (artifical seed) là dạng hạt mô phỏng hột tự nhiên, có một phôi
sinh dưỡng được bọc trong một lớp hydrogel có chứa chất dinh dưỡng. Sau đó,
phôi này nảy mầm thành một cây con hoàn chỉnh.
2. Sơ lược về đặc tính sinh học cây sài đất:
• Tên khoa học: Wedelia calendulacea Less. Họ Cúc (Asteraceae).
• Cây thảo sống dai, đứng thẳng hay mọc bò, cao tới 40cm. Thân màu xanh,
có lông trắng. Lá mọc đối, hình bầu dục, có răng cưa to và nông, có lông
thô ở cả hai mặt. Lá có 1 gân chính và 2 gân phụ xuất phát gần như từ một
điểm ở phía cuống lá, nổi rõ ở mặt dưới lá. Hoa màu vàng tươi, xếp thành
đầu ở nách lá hoặc ở ngọn cành. Quả bế nhỏ, không có lông.
• Thành phần hóa học : Dịch ép của cây chứa dầu hoà tan 11,2%, hợp chất
béo 29,7%, phytosterol 3,75%; caroten 1,14%, chlorophylle 3,75%, nhựa
44,95% còn có đường, tanin, saponin, các chất có solice, pectin, mucin,
lignin và các chất có cellulose. Trong lá có chất Wedelolacton, vừa là một
flavonoid vừa là một cumarin. tinh dầu và rất nhiều muối vô cơ.
Hình cây sài đất
• Tác dụng lâm sàng : giảm đau, giảm sốt kháng sinh rõ rệt,không thấy có
độc tính.
• Sài Đất này gồm chủ yếu là cây thân cỏ.Lá của nó mọc đối, lá kép hình
chân vịt.Có nhiều loại,loại dùng trong bài thí nghiêm là cây có hoa vàng,
cuống dài,lá có nhám long, mỗi bên rìa có 2-3 răng cưa nhỏ.
2. Các nghiên cứu :
 Chủ yếu là làm dược vị
 Thường dùng trong các trường hợp: 1. Dự phòng bệnh sởi; 2. Cảm
cúm, sổ mũi; 3. Bạch hầu, viêm hầu, sưng amygdal;. 4. Viêm khí

quản, viêm phổi nhẹ, ho gà, ho ra máu; 5. Huyết áp cao. Liều dùng
15-30g, dạng thuốc sắc.
 Dùng ngoài chữa đinh nhọt, ghẻ lở, rôm sảy, bắp chuối, sưng vú,
sưng tấy ngoài da. Lấy một lượng cây tươi cần thiết giã đắp, lấy
nước rửa hay bôi.
3. Cách tiến hành:
a. Dụng cụ:
− Ống tiêm 6cc, đĩa Petri, chai nước cất vô trùng.
− Natri alginate 1%, canxi chloride 0,1M.
− Cách pha dung dịch Natri alginate 1%:
Cân 0.5g Natri alginate cho vào 49.5ml nước cất đung nong trong 30s lấy ra
khuấy, rồi cho vào đun tiếp cho đến khi tan hết thanh dung dịch trong va sánh. Lấy
ra để nguội.
b. Tiến hành thí nghiệm:
Chồi được tách ra và rải trên mặt Natri alginate (khoảng 30-40 chồi), dùng
một ống tiêm kim 6cc (bỏ mũi kim) hút các chồi vào cùng với dịch Natri alginate
sau đó đẩy nhẹ dịch Natri alginate nhỏ ra từng giọt vào dung dịch canxi chloride
0,1M. Các giọt Natri alginate rơi ra sẽ mang theo cả chồi, khi gặp dung dịch canxi
chloride các giọt Natri alginate sẽ ngay lập tức được bao bọc bởi lớp vỏ Canxi
alginate. Để hạt trong dịch chloride calcium 30 giây, lựa các hạt có chồi đem rửa
trong nước cất và trữ trong nước cất vô trùng.
4. Kết quả và giải thích :
a. kết quả :
Hình : Hạt nhân tạo
- Các chồi non được bao bọc bỡi một màng Canxi alginate trong suốt, rắn
chắc, thành những hình tròn như giọt nước.
- Nhưng các hạt còn chưa đồng đều về kích thước, có nhiều hạt chồi nằm
không ở trung tâm, mà bị lệch ra gần vỏ màng Canxi alginate.
- Kết quả tương đối là đạt yêu cầu.
b. giải thích :

- Kích thước của chồi quá lớn.
- Pha Gel alginat chưa đạt yêu cầu. Không được quá đặc hoặc quá lỏng.
- Do thao tác thực hành thí nghiệm : hút bơm kim tiêm không đều, hút còn có bọt
khí, không khuấy đều dung dịch canxi chloride 0.1M khi bơm chồi vào => không
được tròn.
Bài 3:
GIẢI PHẨU RỄ, THÂN, LÁ
1. Đối tượng nghiên cứu:
a. Đối tượng:
 Rễ của cây si.
 Thân của cây húng quế.
 Lá của cây ắc ó.
b. sơ lược chung
a. cây si :
 Cây Si (Weeping fig) là một loài cây trong giống Ficus, có nguồn gốc tại
Đông Nam Á và Australia. Cây được Thái Lan nhận làm cây ‘biểu tượng’
cho thành phố Băng Cốc (Vọng Các).
 Tên khoa học và các tên khác: Ficus benjamina (hay F. nitida) thuộc họ
thực vật Moraceae.
 Cây thuộc loại đại mộc, có thể mọc cao đến 30m, nhưng kích thước thay
đổi tùy theo môi trường trồng. Thân màu nâu nhạt hay xám. Cành mọc
ngang từ gốc. Không có rễ buông từ trên nhánh. Toàn cây có nhựa mủ.
Phiến lá hình trái xoan, đầu nhọn và đáy tà; hai mặt đều nhẵn không lông,
dài 5-9 cm rng 3-6 cm, có cuống dài 5-15 mm. Quả mọc từng đôi trên cành
non, hình cầu hay hình trứng, không có cuống, đường kính 10-15 mm, khi
chín có màu đỏ tươi rồi sau đó xậm đen. Cây ra quả quanh năm. (Riêng
dạng Ficus benjamina var. comosa cho quả màu vàng, đường kính chừng
1.2 cm).
 Thành Phần hóa học : Trong nhựa mủ (latex exudate) của Si có các hợp
chất loại sitosterol, Bergapten, Psoralen, Ficin, Cao-su, Cerotinic acid, Các

phân hóa tố loại diastase, esterase, lipase.
 Một số công dụng : chủ yếu dùng làm dược liệu. Trong Nam dược. Dược
liệu là nhựa trích từ thân cây, rễ phụ thu hái và sao cho hơi vàng. Rễ Si
được ngâm rượu (40 gram rễ tươi trong 30 ml rượu trắng hay vodka), uống
trị đau nhức, hay thoa bóp bên ngoài chống sưng đau. Lá Si (100 gram), lá
bưởi (100g) và muối ăn (5g): Lá thái nhỏ, trộn muối rồi sao nóng, gói trong
vải để chườm trị tụ máu, bầm tím do va đập, té ngã.
b. cây húng quế :
Húng quế là loài cây thân thảo có tên khoa học là Ocimum basilicum thuộc họ
Hoa môi.
− Thuộc bộ: Lamiales.
− Thuộc họ: Lamiaceae.
− Chi (giống): Ocimun.
− Loài: O. basilicum.
Đặc điểm hình thái : Cây cao chừng 0,3m, lá rậm, xanh thẫm, mùi vị nồng tương
tự hương vị quế. Ở một số nơi trên thế giới, húng quế được dùng làm gia vị.
c. Ắc ó ( tên latinh: Acanthus intergrifolius )
− Thuộc họ: Ô rô Acanthaceae
− Thuộc bộ Hoa mõm sói Scrophulariales
− Nhóm: cây làm thuốc.
Đặc điểm hình thái : Cây nhỏ cao chừng 1-2m, thân tròn, phân cành nhiều thành
bụi dày, cành non dài, màu xanh bong, không long. Lá mọc đối, phiến nguyên,
mỏng, bóng, xanh đậm, cuống 1cm.
− Thành phần hóa học: trong cây có chứa alcaloit, trong vỏ có chứa tannin.lá chứa
nhiều chất nhờn.
− Công dụng: rễ có vị mặn, chua, hơi đắng, tính hàn, có tác dụng lợi tiểu, tiêu
viêm và làm long đờm.
2. cấu trúc và chức năng của rễ, thân và lá
a. Rễ:
 Rễ có sự phân bố đối xứng từ ngoài vào trong, khi nhìn dưới kính hiển vi

qua lát cắt mỏng:
 Biểu bì: một lớp tế bào với lông rễ không có cutin.
 Vỏ: vùng nhu mô rộng với các tế bào chứa tinh bột.
 Nội bì: một lớp tế bào với khung caspary.
 Chu luân: một hay vài lớp tế bào nhu mô, vách mỏng, có hoạt tinh phân
chia mạnh nơi cho cá rễ bên.
 Mô mạch xếp thành bó, gồm libe và mộc.
 Chính vì cấu trúc như vậy nên chức năng chính của rễ là: hấp thu nước và
các chất khoáng, các chất dinh dưỡng để nuôi cây.
 Ở song tử diệp, các bó mộc xếp thành hình sao và các bó libe nằm xen giữa
các cánh sao.
 Ở đơn tử diệp, có một vùng nhu mô lõi ở giữa, các bó libe-mộc xếp thành
vòng xen kẽ nhau.
b. thân:
− có 3 loại: thân đơn tủ diệp, thân song tử diệp dạng cỏ và thân song tử diệp dạng
gỗ.
+ Thân đơn tử diệp: có tổ chức mạch đơn giản, không có sự phân biệt rõ giữa vỏ
và lõi.
+ Thân song tử diệp dạng cỏ: giống như đơn tử diệp chỉ khác là các bó libe và mộc
riêng biệt.
+ Thân song tử diệp dạng gỗ: khi còn non thì cấu trúc tương tự như dạng cỏ, tuy
nhiên khi bắt đầu trưởng thành thì một số tế bào nhu mô nằm ở khoảng giữa các
bó mạch biến đổi thành tầng sinh mạch, tạo nên các vòng mạch và libe đòng tâm.
Trong các bó mạch, mô non nhất luôn luôn nằm gần tầng sinh mạch.
+ Mô phân sinh bên , tức các tầng phát sinh sube-nhu bì (tạo lớp chu bì ở các cây
gỗ già) hay libe-mộc (tạo các bó libe-mộc). Trong sự phát triển cảu chồi và rễ sau
sự nảy mầm, nhiều mô phân sinh ngọ mới sẽ xuất hiện để tạo nên nhiều nhánh và
rễ bên.
+ Chức năng : nâng đỡ, chứa hệ thống mạch và nối liền bộ lá với hệ thống rễ.
c. Lá:

- sự trao đổi khí (hơi nước, oxygen và cacbon dioxit), xảy ra rất mạnh ở lá, chủ
yếu qua các khí khẩu. Cấu tạo đặc biệt của các khí khẩu, giúp sự trao đổi khí được
điều hòa theo nhu cầu của thực vật.
- Dưới biểu bì, nhu mô thịt lá sắp xếp rất lỏng lẻo, chừa nhiều khoảng gian bào
rộng thông thương nhau và liên tục với khí quyển bên ngoài qua các khí khẩu.
Nhu mô thịt lá là phần chủ yếu của phiến lá với các tế bào chứa diệp lạp, nơi thực
hiện sự quang hợp.
- Mô mạch của lá liên hệ chặt chẽ với nhu mô thịt lá, tạo điều kiện thuận lợi cho
sự cung cấp nước và các chất khoáng cần thiết cho quang hợp (theo mô mộc) và
sự phân phối các sản phẩm quang hợp (theo libe).
Hình giải phẫu lá Ắc Ó

xốp
Biểu

Bó dẫn
gân lá
Mô giậu
Hình giải phẫu rễ cây Si
Hình giải phẫu thân cây Húng Quế
Chu
Luân
Nội Bì
Lõi
Xốp
Xylem
Biểu Bì
Biểu

Xylem

Libe
Nhu
Mô Tủy

×