Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Mục đích yêu cầu
Làm thế nào để dạy tốt và học tốt bộ môn Văn? Môn Ngữ Văn là môn
học kết tinh nhiều giá trò văn hóa truyền và nhân loại. Với dân tộc Việt Nam
ta, văn chương là điều gắn bó thân thiết. Từ thû còn nằm nôi, đứa bé đã
được nâng niu, bồi dưỡng bằng văn chương qua lời hát ru âu yếm, đậm đà.
Khi được đi học, trước nhất phải là “Học ăn, học nói”. Tiếp đó, con người đi
vào đời sống của dân tộc “Vốn tự xưng là nền văn hiến đã lâu”. Những thầy
giáo từ hàng ngàn năm qua, đầu tiên vẫn là thầy văn chương, đạo lý. Và mãi
sau này nữa, người trẻ tuổi muốn thi vào bất cứ trường Đại học chuyên khoa
nào, bài thi vẫn là bài thi văn.
Với chức năng là một người làm công tác giảng dạy trong nhà trường
bản thân tôi cũng nhận thấy rằng, ngày nay, số lượng học sinh sao nhãng
trong việc học môn Ngữ Văn là tương đối. Đó cũng là vấn đề mà tôi trăn trở
bấy lâu . Với 6 năm làm công tác giảng dạy tôi nghiệm thấy rằng, cái ước
muốn học văn sao cho giỏi, dạy văn sao cho hay, viết văn sao cho tốt là ước
muốn của nhiều giáo viên và học sinh . Muốn thực hiện ước mơ ấy thì phải
thực sự tìm tòi trong văn chương nói riêng và trong văn hóa nói chung. Tôi
đưa ra vài ba kinh nghiệm thiết thực cho mình, hy vọng trao đổi với đồng
nghiệp, mong góp một phần nhỏ kinh nghiệm của mình vào công tác dạy và
bồi dưỡng học sinh để phần nào đó giúp các em có hứng thú học tập hơn ở
bộ môn Ngữ Văn. Để từ đó các em có thể phát huy năng lực của mình để trở
thành những học sinh giỏi văn thực sự. Dù biết còn nhiều hạn chế nhưng tôi
vẫn không ngừng cố gắng.
2. Thực trạng ban đầu.
+ Khi chưa áp dụng SKKN này:
* Đối với học sinh : Đa số các em ở trung tâm, lại có điều kiện rất
thuận lợi trong việc học tập và bồi dưỡng. Nhưng phần lớn trong số này thì
các em lại thích những môn học tự nhiên hơn, thậm chí có nhiều em học đều
tất cả các môn, trong đó học môn Ngữ Văn cũng rất là tốt nhưng khi giáo
viên đặt vấn đề gợi ý cho các em đi bồi dưỡng và thi học sinh giỏi thì các em
lại từ chối và chọn thi những môn tự nhiên như: Toán, Lí, Hóa… Bởi các em
cho rằng học văn đã khó rồi, viết văn lại càng khó hơn, các em tâm sự rằng:
“Để có một bài văn hay, giàu cảm xúc đặc biệt là phải đúng với yêu cầu của
Người thực hiện: Lê Thò Thuỳ Nhung
Trrường trung học cơ sở Thò Trấn Tam Đường
Phòng giáo dục và đào tạo Tam Đường – Tỉnh Lai Châu
1
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
đề bài, các em thấy khó quá. Viết văn không những viết đúng mà còn phải
viết hay nữa, nên chúng em sợ không làm được”. Do có những suy nghó như
vậy nên đa số các em không đủ tự tin để thử tài năng của mình. Chỉ có một
số ít trong số các em đó có can đảm tự tin chọn môn Ngữ Văn làm mục tiêu
để thử năng lực của mình.
Còn có những em thì điều kiện gia đình có thừa khả năng cho các em
học tập, bồi dưỡng. Nhưng bản thân các em đó lại có những đam mê cá
nhân, mải chơi quên học. Phần thì ở ngay trung tâm huyện nên có nhiều trò
chơi cuốn hút sự đam mê của các em, phần thì có tính ham chơi, lười học nữa
nên hầu như những em nào rơi vào tình trạng này đều rất lười học. Giáo viên
giảng bài trên lớp thì một số em ngồi dưới lớp nói chuyện riêng, làm việc
riêng không hề chú ý đến bài giảng của giáo viên . Có khi vừa giảng xong là
giáo viên hỏi lại vấn đề ngay mà học sinh cũng không trả lời được. Mà bộ
môn Ngữ Văn thì rất cần sự chú ý nghe giảng để các em dần phát triển kó
năng, tư duy, lập luận của mình. Bên cạnh đó, cũng có nhiều em nhà ở rất xa
trung tâm. Nếu xét về mặt tiếp cận các trò chơi hiện đại trên Intơnét thì các
em rất hạn chế. Nhưng khả năng học và cảm nhận môn Ngữ Văn cũng
không có gì tiến bộ hơn so với những em khác. Bởi vì sao? Vì hoàn cảnh gia
đình không thể tạo điều kiện cho các em về mặt thời gian để học môn này.
Trong khi đó bộ môn Ngữ Văn là một bộ môn cần đầu tư thời gian rất là
nhiều. Mà các em thì ngoài thời gian học trên lớp ra, về đến nhà là buông
tập vở lo lao động để phụ giúp gia đình nên không có nhiều thời gian học
tập. Gia đình, cha mẹ thì lo làm ăn, không có thời gian quan tâm, nhắc nhở
con em học tập, thiếu tiền hỗ trợ cho con cái để mua các phương tiên học tập
như, tài liệu, sách tham khảo và các phương tiện học tập khác nữa. Trong khi
đó, trình độ văn hóa của cha mẹ có hạn nên không hướng dẫn, chỉ bảo được
gì cho con mình mà chủ yếu là khoán trắng cho các em tự lo. Nếu bố mẹ nào
có sự quan tâm thì cũng chỉ biết nhắc nhở là “Phải cố gắng học đi”, “Lo mà
học đi”… Còn các em thì vẫn cứ ngồi vào bàn nhưng chưa chắc đã học, ngồi
chỉ để đối phó với bố mẹ, để bố mẹ thấy là mình có ngồi học. Thậm chí có
những em ngồi vào bàn học nhưng đầu óc lại hướng vào những cuốn truyện
tranh, những trò chơi thường ngày, có khi còn đọc truyện ngay trên bàn học
mà bố mẹ không biết…Nên đối với những học sinh rơi vào hai trường hợp
trên thì giáo viên văn rất klhó bồi dưỡng cho các em để trở thành những học
Người thực hiện: Lê Thò Thuỳ Nhung
Trrường trung học cơ sở Thò Trấn Tam Đường
Phòng giáo dục và đào tạo Tam Đường – Tỉnh Lai Châu
2
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
sinh khá giỏi được. Thậm chí có những em học lớp 7,8 rồi mà vẫn không viết
được một lá đơn xin phép nghỉ học, hay trình bày bố cục của một văn bản.
Tất cả những vấn đề nêu trên thực sự là một vấn đề nan giải đối với
tất cả mọi người. Đặc biệt là đối với những người làm công tác giảng dạy
như chúng tôi.
* Đối với giáo viên:
Số lượng giáo viên của trường tương đối đầy đủ ở tất cả các bộ môn,
96% giáo viên đã đạt chuẩn, số giáo viên đạt trên chuẩn chiếm tỉ lệ khoảng
20% cán bộ công nhân viên chức, đồ dùng, trang thiết bò và tài liệu giảng
dạy… Cũng đã được trang bò tương đối đầy đủ nhưng cũng chưa đáp ứng
được nhu cầu của giáo viên . Đặc biệt là đầu sách tham khảo rất ít so với số
lượng giáo viên dạy bộ môn. Hiện nay, xét về mặt bằng chung của trường, tỉ
lệ học sinh yếu, kém vẫn còn và tỉ lệ học sinh trung bình cũng không phải là
thấp. Phải chăng do chương trình đổi mới mà kiến thức cao hơn? Hay là do
hoàn cảnh gia đình không đủ điều kiện để cho các em học tập và bồi dưỡng,
nâng cao… Nhưng dù sao thì trách nhiệm nâng cao chất lượng giảng dạy,
giảm thiểu học sinh yếu, tăng số lượng học sinh giỏi văn thuộc về các nhà
quản lí, vẫn là các thầy cô giáo chúng ta.
Với kinh nghiệm 6 năm dạy học, tôi nhận thấy rằng cần phải cải tiến
để nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh là điều kiện tất
yếu. Nếu không, các em sẽ rất lơ là trong việc học tập và bồi dưỡng bộ môn
Ngữ Văn. Vậy, giải pháp nào để khắc phục tình trạng đó.
3. Giải pháp đã sử dụng:
Khi chưa cải tiến phương pháp mới, tôi chỉ đơn thuần là đi theo phương
pháp phân tích – tổng hợp. Tức là đầu tiên cho học sinh đọc văn bản, tìm
hiểu chú thích, tìm hiểu nội dung khái quát của văn bản. Từ đó đi phân tích
cụ thể từng hình ảnh, chi tiết để khắc sâu, cuối cùng tổng hợp lại vấn đề một
lần nữa. Và tôi chỉ sử dụng cứng nhắc một phương pháp này trong nhiều
năm và tôi cảm thấy hiệu quả không được khả quan. Bởi vì những em có học
lực khá trở lên thì còn có hứng thú học, còn đối với những em có lực học
trung bình trở xuống thì ngày càng lười học, lực học xa sút vì theo không kòp,
nguyên nhân là do các em không chòu soạn bài mới trước ở nhà nên khi lên
lớp, khi giáo viên giảng thì các em không tiếp thu kòp nên dẫn đến lười học
rồi chán học, dẫn đến tình trạng học để đối phó chứ không hề có hứng thú,
có sáng tạo trong bài làm của mình.
Người thực hiện: Lê Thò Thuỳ Nhung
Trrường trung học cơ sở Thò Trấn Tam Đường
Phòng giáo dục và đào tạo Tam Đường – Tỉnh Lai Châu
3
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận:
Dựa vào đặc thù của bộ môn, dạy văn không chỉ là dạy đúng là đủ mà
còn phải dạy hay. Dạy đúng là phải dạy cho chắc kiến thức, nếu phạm nhiều
cái sai thì dù chó có có tài hoa, độc đáo đến đâu cũng không cho là hay
được.
Với chức năng là người làm công tác giảng dạy trong nhà trường, tôi
thấy hoạt động dạy học thể hiện ở kết quả học tập của người học sinh, cụ
thể là là bằng kết quả lên lớp hàng năm, kết quả đậu tốt nghiệp, số lượng
học sinh giỏi các cấp. Cho nên, vấn đề dạy học như thế nào để có kết quả
cao, giảm học sinh yếu kém tăng số lượng học sinh giỏi các cấp là yêu cầu
tất yếu của người giáo viên nhân dân.
Khi chọn đề tài này là muốn giúp học sinh nhận thức được sâu sắc
của về câu nói của nhà văn Gorki: “Văn học là nhân học”. Đúng vậy, với
thế mạnh riêng của mình, môn Ngữ Văn giúp người học tiếp xúc với vẻ đẹp
kì diệu và phong phú của tiếng mẹ đẻ, tiếp xúc với vốn văn học dân tộc và
nhân loại. Giúp cho chúng ta có một đời sống tâm hồn tốt đẹp, biết yêu ghét
rạch ròi, biết phân biệt bạn, thù, biết thông cảm với niềm đau, nỗi bất hạnh
của người khác. Bởi vậy nên văn học góp phần bồi dưỡng tâm hồn, hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh.
Văn học là để học cách làm người, học văn để tiếp thu tinh hoa văn
hóa của nhân loại. Ngày nay, xã hội công nghệ khoa học phát triển chóng
mặt, nước ta cũng đang dần hội nhập chứ không hòa tan với các nước trên
thế giới. Quan diểm của mọi người là chú ý đến học văn, không xem nhẹ
các môn xã hội nhất là những môn được môn theo học sinh là những môn
học phụ. Mọi người quan niệm: “Văn chương hạ giới rẻ như bèo” . chỉ học
giỏi các môn tự nhiên còn môn Ngữ Văn biết là được. Những người đâu có
biết được rằng, nếu môn học tự nhiên giúp ta tính toán, rèn luyện tác phong
khoa học, thì môn Ngữ Văn tạo cho học sinh phong cách sống, tiếp thu
những cái hay, tinh hoa văn hóa của nhân loại, của những con người có tâm
hồn trong sáng, có tư duy sáng tạo, bước đầu có những năng lực cảm thú
những gia trò văn hóa ở trên đời, mở rộng tầm hiểu biết. Văn học còn giúp
các em thêm yêu cuộc sống, yêu quê hương. Đất nước và còn giúp các em
ấp ủ những ước mơ đẹp đẽ.
Người thực hiện: Lê Thò Thuỳ Nhung
Trrường trung học cơ sở Thò Trấn Tam Đường
Phòng giáo dục và đào tạo Tam Đường – Tỉnh Lai Châu
4
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
Đất nước ta là đất nước của thơ ca, ở đâu có cuộc sống thì ở đó có thơ
ca:
“Thơ ca ơi hãy cất cao tiến hát.
Ca ngợi trăm lần Tổ quốc chúng ta”
Chúng ta có quyền tự hào về bản sắc văn hóa dân tộc mình, không bò
đồng hóa trước dòng văn học ngoại lai. Văn hóa giúp ta cảm nhận cuộc sống
tốt đẹp, có ý nghóa, cung cấp cho chúng ta vốn từ để tiếp súc với văn bản. Vì
vậy, con người muốn phát triển toàn diện thì phải chú trọng học văn,
mônNgữ Văn cung cấp cho các em vốn từ Tiếng Việt để các em, hiểu thêm
tiếng Việt, thêm yêu tiếng mẹ đẻ. Ví dụ khi phân tích sự giàu đẹp của tiếng
Việt, để cho học sinh cảm nhận sâu sắc hơn về cái hay cái đẹp của tiếng
Việt thì ta phải lấy dẫn chứng từ trong thơ, văn để phân tích:
Ví dụ 1: Bài thơ “Chinh phụ ngâm” rất hài hòa về nhòp điệu.
“ Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy.
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai”
Đoàn Thò Điểm
Ví dụ 2: “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi
(Hài hòa về mặt ngữ âm)
Xuân Diệu
Ví dụ 3: Phong phú về mặt từ vựng:
- Cùng chỉ người Mẹ, tiếng Việt có nhiều cách gọi khác nhau : Má,
bu, bầm…
- Những từ mới được bổ sung: Xà phòng, ra điô, Internet, vi tính, tin
học…
Ví dụ 4: Sự uyển chuyển, mượt mà được thể hiện trong lời văn của
Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng …
“ Cốm là thứ quà riêng biệt của Đất nước, là thức dâng của những
cánh đồng lúc bát ngát xanh mang trong hương vò của tất cả cái mộc mạc
giản dò và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam”.
2. Giả thiết:
Người thực hiện: Lê Thò Thuỳ Nhung
Trrường trung học cơ sở Thò Trấn Tam Đường
Phòng giáo dục và đào tạo Tam Đường – Tỉnh Lai Châu
5
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
Với phương pháp cứng nhắc của mình, tôi thấy kết quả của học sinh ở
các khối lớp không có hiệu quả nên tôi đã quyết đònh thay đổi phương pháp
dạy mới bằng những cách sau:
- Trước khi phân tích một tác phẩm, người giáo viên không chỉ có
nghiên cứu kó SGK mà còn phải nghiên cứu các tài liệu có liên quan. Đồng
thời phải nhập tâm vào tác phẩm, trút bỏ những vướng bận của cuộc sống
thường nhật để hóa thân vào nhân vật, để lột tả những cảm xúc vui, buồn,
sướng, khổ của nhân vật như là của mình.
- Có phương pháp tích hợp giữa môn Ngữ Văn với các môn học khác.
- So sánh giữa nhà văn của thời đại này với nhà văn của thời đại kia
để làm nổi bật và khắc sâu thêm vấn đề.
- Trong quá trình giảng dạy, không nên cứng nhắc theo một phương
pháp nào mà có thể dùng linh hoạt đối với tất cả các phương pháp:
+ Ngoài phương pháp tích hợp ngang với các phân môn Tiếng Việt,
Tập làm văn, giáo viên còn cần phải phân tích hợp dọc các kiến thức bên
ngoài để làm cho bài văn thêm phong phú, sinh động. Đồng thời mở rộng
vốn từ cho học sinh .
Ví dụ như khi phân tích bài “ Sông núi nước Nam” của Lý Thường
Kiệt ta tích hợp với môn Tiếng Việt, cho học sinh hiểu nghóa của các yếu tố
Hán Việt, tích hợp với Tập làm văn ở phương thức biểu đạt và ở văn biểu
cảm có yếu tố tự sự.
+ Kết hợp tất cả các phương pháp trong quá trình giảng dạy như:
Thuyết minh, vấn đáp, phân nhóm, thảo luận và tùy vào nội dung của mỗi
bài mà ta có thể sử dụng tranh, ảnh sau mỗi bài giảng để học sinh có thể
hình dung, tưởng tượng sáng tạo theo cách hiểu của mình. Từ đó các em có
thể vẽ phác họa theo cách hiểu của mình để mô phỏng lại nội dung bài học.
+ Giáo viên không nên áp đặt cách hiểu của mình cho học sinh. Học
sinh là người chủ động lónh hội kiến thức, cảm thụ tác phẩm. Giáo viên chỉ
gợi ý bằng vài câu hỏi, các em thảo luận, trả lời câu hỏi ra giấy, sau đó một
em đại diện nhóm trả lời. Giáo viên cho thuyết trình khi muốn chốt lại vấn
đề.
+ Trong từng bài, giáo viên cần liên hệ với thực tế đời sống. Như khi
ta giảng bài về ca dao, tục ngữ thuộc chủ đề gia đình và xã hội, ta phải
hướng cho học sinh biết ăn nói lễ độ, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, biết ơn
Người thực hiện: Lê Thò Thuỳ Nhung
Trrường trung học cơ sở Thò Trấn Tam Đường
Phòng giáo dục và đào tạo Tam Đường – Tỉnh Lai Châu
6
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
thầy cô giáo và các anh hùng liệt só đã hy sinh xương máu cho ta cuộc sống,
thanh bình như hôm nay.
+ Cho học sinh thấy được học văn trong nhà trường không phải chỉ cốt
để đủ điểm, để đạt được mức trung bình mà còn phải học để giỏi văn nữa.
Muốn học giỏi văn thì trước hết phải học học cho đủ bài, làm bài bài đầy đủ,
đạt kết quả trung bình và trên trung bình. Sau đó là phải có thêm nhiều sự
gia công khác nữa. Có những biện pháp khacù cụ thể cho sự gia công này bất
cứ ai cũng thực hiện được. Chẳng hạn như: Những bài đã học ở lớp rồi về
nhà cũng phải đọc đi đọc lại ở nhà nhiều lần, được nghiền ngẫm, tìm hiểu
thêm cho đến nơi đến chốn. Không nên chỉ bằng lòng với kiến thức được
cung cấp ở lớp, mà phải làm cho kiến thức ấy được chắc hơn, sâu hơn. Muốn
giỏi văn thì phải làm sao cho văn thấm vào mình. Văn chương là câu chuyện
nhập tâm, có tâm trí và có tâm hồn. Thường có hình ảnh trong câu văn,
những âm điệu trong câu thơ cứ vương vấn mình hàng ngày, hàng tháng,
không phải vương vấn để đòi hỏi một giải đáp kiến thức mà đó là một sự
vương vấn trong rung động, trong cảm thông. Bài văn nào được học trong
nhà trường nếu các em thật sự quan tâm, đều tạo cho học sinh sự vương vấn
và gắn bó này. Chính cái vương vấn, cái gắn bó ấy sẽ đưa các em vào thế
giới văn chương và làm cho các em yêu văn và thích văn hơn.
Và tất nhiên, muốn học giỏi văn, muốn viết văn hay hơn thì mỗi người
học sinh phải có cách phấn đấu riêng của mình. Dưới đây là chín điều tâm
niệm và cũng là những bí quyết muốn học giỏi văn, muốn viết văn hay mà
tôi muốn truyền đạt cho các em học sinh:
- Tạo hứng thú và duy trì hứng thú. Yêu cầu trước nhất của người
muốn giỏi văn là phải thích văn, có hứng thú về môn Ngữ Văn.
- Làm giàu ngôn ngữ: Làm nghề gì cũng vậy, nếu không có vốn liếng
tối thiểu thì làm sao cố thể khuếch trương được sự nghiệp cho rộng lớn sau
này. Ngôn ngữ là cái vốn khởi đầu cho những ai muốn viết văn hay.
- Học thuộc lòng là biện pháp để giỏi văn hiệu nghiệm.
- Phải chăm đọc sách.
- Nghệ thuật bắt chước để giỏi văn.
- Ba yêu cầu để giỏi văn: Quan sát tinh tế, tưởng tượng dồi dào, nghò
luận chắc chắn.
- Bài học ngoài đời: Nó có tác dụng cung cấp cho chúng ta vốn sống.
- Phấn đấu có cái riêng của mình.
Người thực hiện: Lê Thò Thuỳ Nhung
Trrường trung học cơ sở Thò Trấn Tam Đường
Phòng giáo dục và đào tạo Tam Đường – Tỉnh Lai Châu
7
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
- Công phu gọt dũa: Đây là công việc cuối cùng của người viết văn, là
khâu sửa chữa khi tác phẩm của mình đã hoàn thành.
3. Quá trình thử nghiệm sáng kiến:
Biện pháp cơ bản để nâng cao chất lượng học tập của học sinh là cải
tiến quá trình giảng dạy, giáo dục của người giáo viên trên lớp. Đảm bảo
chất lượng giảng dạy, giáo dục bắt đầu từ lớp 6 và cứ thế lên các lớp tiếp
theo. Nếu ở lớp dưới dạy học không có chất lượng thì các lỗ hổng kiến thức
cơ bản về phương pháp nhận thức, các khuyết tật ngày càng chồng chất làm
cho việc khắc phục chúng trở nên khó khăn hơn, nặng nề hơn đối với đội
ngũ giáo viên dạy ở những lớp trên. Nếu tình hình đó càng kéo dài triền
miên thì càng làm cho học sinh mất hứng thú học tập. Bởi vậy nên ta phải áp
dụng phương pháp mới vào từ lớp nhỏ nhất sau đó dần dần lên lớp lớn
Thực trạng môn Ngữ Văn trong nhà trường là môn có vò trí vô cùng
quan trọng, giáo dục.
Môn Ngữ Văn trong nhà trường là môn có vò trí vô cùng quan trọng,
giáo dục phẩm chất đạo đức cho học sinh, cung cấp kiến thức tự nhiên và xã
hội cho các em nên việc dạy môn Ngữ Văn trong nhà trường vừa có thuận
lợi nhưng cũng vừa gặp không ít khó khăn.
+ Thuận lợi: Nhờ sự đổi mới về phương pháp dạy học nên đã tạo cho
các em tính tự lập, phát huy sự sáng tạo, gây hướng thú cho học sinh học tập
+ Khó khăn: Do đổi mới phương pháp dạy như vậy mà đồ dùng để
phục vụ cho bộ môn thì lại hạn chế. Tài liệu tham khảo ít ỏi , học sinh thì
học lệch. Do đó có một số học ít có thể là học lớp 7, lớp 8 rồi mà chưa viết
được lá đơn xin phép, chưa trình bày được một văn bản. Đối với chúng ta, là
người giáo viên chúng ta phải có những biện pháp, giải pháp tạo cho các em
yêu thích môn Ngữ Văn, học giỏi môn Ngữ Văn, hứng thú học môn Ngữ
Văn.
+ Trước tiên, chúng ta cần hiểu tâm lí học trò, vì học trò nhìn đời bằng
những gì hiển hiện ở bên ngoài chứ còn thực tế bên trong các em chưa hiểu
được một cách sâu xa. Do đó ta phải hướng cho các em tìm hiểu những bậc
thang kiến thức, cảm nhận được cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn học,
khám phá nội dung nghệ thuật trong tác phẩm bằng cách cho học sinh hoá
thân vào trong tác phẩm, hiểu cuộc đời nhân vật giống như cuộc đời thật của
mình. Với lòng nhiệt tình và kiến thức của giáo viên, cho các em những kiến
thức thích thú tiếp nhận kiến thức qua bài giảng. Người giáo viên khi giảng
Người thực hiện: Lê Thò Thuỳ Nhung
Trrường trung học cơ sở Thò Trấn Tam Đường
Phòng giáo dục và đào tạo Tam Đường – Tỉnh Lai Châu
8
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
bài phải dùng những từ ngữ hay giàu cảm xúc, đònh hướng thích hợp, kiến
thức phong phú …
Ví dụ: Khi phân tích tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, Lão Hạc của
Nam Cao. Giáo viên cần cho học sinh thấy được thân phận của người nông
dân Việt Nam trước cách mạng Tháng tám. Số phận của họ, nhất là người
bần nông thật đáng thương. Chò Dậu chỉ vì một suất sưu của chồng mà phải
bán đứa con gái thân yêu của mình. Trong cái xã hội phong kiến thời nô lệ
ấy, con người đánh thuế như thuế con vật, thuế hàng hoá … Còn cảnh đói
nghèo của Lão Hạc cũng như cảnh đời bi thương của hầu hết những người
nông dân khác, để rồi bò bọn thực dân, phong kiến hất ra bên lề cuộc sống
vv… Rồi từ đó cho học sinh hiểu rằng vì sao máu của ông cha ta cứ lần lượt
thấm hồng những trang sử đấu tranh quyết giành lại từ tay kẻ thù bầu trời tự
do, độc lập cho con cháu đời sau. Từ đó các em có ý thức học tập để bảo vệ
quê hương Đất nước mình.
Ví dụ: Khi giảng về tình “Đồng chí” đồng đội trong bài “Đồng chí”
của Chính Hữu ở chi tiết “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Khi bình giảng
về tình đồng chí, đồng đội họ trao nhau những tình cảm không ồn ào, không
náo động nhưng bàn tay nói im lặng của sự cảm thông, cùng nhau hứa hẹn
lập công vượt qua mọi gian lao để xích lại nhau hơn, một cái bắt tay thật
chặt là biểu hiện tốt và không thể nói thành lì. Có lẽ giữa đêm khuya lạnh
lẽo họ muốn san sẻ hơi ấm qua bàn tay và họ trao nhau những gì kín đáo
nhất của cuộc đời. Ở chi tiết này ta có thể lấy thêm từ bài “Nhớ” của
Nguyên Hồng: “Kì hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng” đến việc “Qø chân
tìm hơi ấm đêm mưa”. Vì tình đồng chí, đồng đội họ thổ lộ những điều sâu
kín nhất:
“Đằng nớ vợ chưa?
Đằng nớ! Còn chờ độc lập”
Sau lời đáp hồn nhiên ấy:
“Cả lũ cười vang bên ruộng dưa
Nhìn o thôn nữ cuối nương dưa …”
Hoặc khi giảng về sự gian lao của người lính trong cuộc đời chiến đấu
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh”, có thể lấy thêm ví dụ ở trong bài thơ
“Tây tiến” của Quang Dũng có câu:
“Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng”
Người thực hiện: Lê Thò Thuỳ Nhung
Trrường trung học cơ sở Thò Trấn Tam Đường
Phòng giáo dục và đào tạo Tam Đường – Tỉnh Lai Châu
9
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
Ngoài biện pháp đó giáo viên còn hướng dẫn cho học sinh tham khảo
tài liệu, rồi ghi chép những đoạn văn đoạn thơ hay vào trong “Sổ tích lũy
kiến thức”. Từ đó biến ngôn ngữ của mình trong khi làm bài viết, giao tiếp
trong cuộc sống, việc làm đó cũng giúp cho học tốt môn Ngữ Văn, đã có lời
nhắn nhủ những việc làm này:
“Mấy lời nhắn nhủ bạn nhỏ to
Muốn học văn nhớ cho một điều
Sách báo cứ đọc cho nhiều
Từ hay tiếng tốt ghi đều vào sổ tay
Thuộc lòng những đoạn văn hay
Những câu thơ đẹp ngày ngày chớ quên”
Khi học sinh có một số vốn từ phong phú người giáo viên lập dàn ý
đònh hướng cho học sinh.
Ví dụ: Khi phân tích giá trò nhân đạo trong tác một số tác phẩm văn
học
+ Người giáo viên phải cho học sinh hiểu biết về quan niệm của xã
hội phong kiến ngày xưa, giá trò của tác phẩm văn học ngày xưa. Một tác
phẩm sống mãi với thời gian, được đề cao không chỉ trong ngôn ngữ hay hay
không mà qua tác giả muốn nói gì? Giá trò bên trong, giá trò nhân đạo của
tác phẩm dưới xã hội phong kiến khi mà cuộc đời đầy rẫy những bất công,
khổ đau, những chuỗi ngày vất vả đau thương của những người phụ nữ.
Chính những lúc này ngòi bút của những nhà văn, nhà thơ chân chính hướng
về đau thương ấyviết những tác phẩm đầy yêu thương sau sắc.
+ Đối với truyện Kiều của Nguyễn Du đã gãy đúng cung đàn của
những người phụ nữ, ngòi bút của ông viết lên bài ca hy vọng cho họ. Một
tia sáng lóe lên trong cuộc sống đen tối.
+ Với “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương bài thơ có sự ngọt ngào
và dư vò cay đắng thể hiện trong ấy. Hạnh phúc của người phụ nữ thì mong
manh còn khổ đau còn vô tận.
Xã hội ngày càng phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước vò
thế của người phụ nữ càng được thể hiện rõ hơn họ là những người năng
động, sáng tạo trong mọi công việc đóng góp cho công cuộc xây dựng tổ
quốc…
Khi giáo viên lập dàn ý cung cấp thêm kiến thức cho học sinh làm bài,
đọc bài của mình tự nhận xét, giáo viên đònh hướng cho học sinh làm bài
Người thực hiện: Lê Thò Thuỳ Nhung
Trrường trung học cơ sở Thò Trấn Tam Đường
Phòng giáo dục và đào tạo Tam Đường – Tỉnh Lai Châu
10
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
hoàn chỉnh. Văn chương không cần đến ngững người thợ khéo tay làm một
vài kiểu mẫu cho, văn chương chỉ dung nạp những người đào sâu tìm tòi,
khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có. Người giáo
viên khi đang dạy cho các em phải dạy hết tất cả không học tủ, mỗi chủ đề
tôi sẽ đònh hướng cung cấp từ các em. Ví dụ: Văn học lớp 9 tôi sẽ đi theo
hướng chủ đề yêu nước trong văn học cổ, hình tượng người phụ nữ, hình ảnh
người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, hình ảnh con
người mới. Ra các đề cho các em làm hoặc thay đổi việc kiểm tra bài cũ ở
nhà bằng cách đặt câu hỏi , học sinh trả lời, kích thích sự hoạt động của các
em bắng hình thức nhận xét khen thưởng trước lớp từ đó các có ý thức học
tập tốt hơn.
Trong quá trình thử nghiệm, trong tổ cũng đã dự giờ, góp ý cho tiết
dạy của tôi và mọi người đều tán thành với phương pháp mới của tôi và công
nhận là có hiệu quả thiết thực.
4. Hiệu quả mới
Quả thật, khi tôi thay đổi cách sử dụng các phương pháp mới tích cực
hơn, tôi thấy các em có phần hứng thú học tập hơn. Bởi vì trong quá trình
dạy cứ một tuần, ngoài kiểm tra thường xuyên tôi lại kiểm tra xác xuất một
vài em về kiến thức đã học và mở rộng tôi thấy kết quả thật đáng mừng, các
em có hứng thú học tập hơn so với trước, sau mỗi câu hỏi của bài học là các
em có câu trả lời ngay và rất hăng hái phát biểu ý kiến. Về nhà cũng đã chòu
khó học bài cũ và đọc các bài viết trong SGK và tham khảo nhiều bài viết
khác ngoài SGK.
Đặc biệt là trong các kì thi học sinh giỏi cấp trường và thi học sinh giỏi
cấp huyện của ngành tổ chức tôi thấy số lượng các em tham gia dự thi rất
đông. Năm sau nhiều hơn năm trước.
Kết quả cụ thể là:
Năm
học
Khối lớp 6 Khối lớp 7 Khối lớp 8 Khối lớp 9
Số
lượng
học
sinh dự
thi
Số
lượng
học
sinh
đạt
Số
lượng
học
sinh dự
thi
Số
lượng
học
sinh
đạt
Số
lượng
học
sinh
dự thi
Số
lượng
học
sinh
đạt
Số
lượng
học
sinh
dự thi
Số
lượng
học
sinh
đạt
Người thực hiện: Lê Thò Thuỳ Nhung
Trrường trung học cơ sở Thò Trấn Tam Đường
Phòng giáo dục và đào tạo Tam Đường – Tỉnh Lai Châu
11
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
giải giải giải giải
06 –
07
07 - 08
04
06
02
04
05
07
02
05
04
07
02
05
02
04
01
03
PHẦN III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Kinh nghiệm cụ thể:
Với một vài kinh nghiệm mà tôi vừa nêu ra đây chỉ phù hợp với việc
dạy học văn trong nhà trường THCS. Vì những kinh nghiệm của tôi bước đầu
chỉ làm cho học sinh có hứng thú học tập để từ đó các em có sự thích thú
đam mê học tốt bộ môn mà lâu nay các em đã xem nhẹ.
2. Sử dụng sáng kiến kinh nghiệm
Để sử dụng tốt phương pháp này thì mọi người cần phải
* Đối với giáo viên:
Đọc kỹ tác phẩm, sưu tầm những tài liệu xung quanh tác phẩm như,
tiểu sử tác giả, cuộc đời sự nghiệp, bối cảnh lòch sử khi tác phẩm ra đời…
Những nhận xét đánh giá của những nhà phê bình văn học, nhà văn, nhà thơ
trong và ngoài nước về tác phẩm.
Dù là tiếng Việt hay Tập làm văn, giáo viên cũng cần soạn giáo án tỉ
mó, kỉ cương, có chất lượng cả về phương pháp và nội dung. Mục đích là
truyền tải đầy đủ trọng tâm kiến thức, giúp học sinh hiểu bài nhanh nhất.
Đồng thời với giáo viên, người giáo viên cần chuẩn bò đồ dùng dạy
học thật chu đáo như tranh, ảnh minh họa, bảng phụ, các sơ đồ, biểu đồ đối
với phân môn tiếng Việt.
• Đối với học sinh:
Phải soạn bài chi tiết theo hệ thống câu hỏi trong SGK đọc kó văn bản,
đọc được cả tác phẩm thì càng tốt. Tập phân tích, cảm nhận theo cách riêng
của mình.
Khai thác những vấn đề xung quanh tác phẩm như: Bối cảnh, cuộc đời
sự nghiệp, phong cách riêng của từng tác giả
3. Kết luận và kiến nghò
Nói chung cái gì cũng có hai mặt tác động qua lại thì mới có sự thành
công được. Về phía giáo viên muốn dạy văn tốt thì phải chọn những giải
pháp tốt nhất để gây hứng thú cho người học. Và hơn thế nữa người giáo
viên dạy văn phải có chất văn, có vốn văn thì mới có thể dạy văn đúng và
Người thực hiện: Lê Thò Thuỳ Nhung
Trrường trung học cơ sở Thò Trấn Tam Đường
Phòng giáo dục và đào tạo Tam Đường – Tỉnh Lai Châu
12
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
dạy văn hay được . Chất văn là một cái gì đó rất khó nói, nhưng lại cũng rất
dễ nhận ra. Chẳng hạn như phải có tâm hồn thi só, dù không bao giờ làm thơ,
thậm chí không làm thơ được. Không làm được thơ nhưng lại hiểu được thơ.
Muốn có được chất văn thì cần phải có vốn văn phong phú muốn có
được vốn văn phong phú thì điều quan trọng trước tiên là phải yêu văn
chương. Nhưng cái vốn văn chương không chỉ nằm ở phạm vi văn học mà
còn ở chung quanh những văn liệu, cái vốn lòch sử, vốn phong tục của đất
nước, cái vốn ngoài đời… Mà người giáo viên dạy văn phải tìm cách tích lũy.
Ngoài ra, người giáo viên phải biết rõ học lực và trình độ nhận thức
của các em, dù chỉ là những nhận biết sơ bộ nhưng để từ đó giáo viên mới có
thể đặt được việc giáo dục, giáo dưỡng của mình một cách có kết quả, vừa
truyền thụ kiến thức, vừa bồi dường tâm hồn. Trang bò kiến thức cho các em,
để rồi phát hiện, rồi nâng đỡ bồi dưỡng để hướng các em phát huy được sở
trường của mình.
Bên cạnh giáo viên là người đònh hướng và tác nhận xúc tác để thúc
đẩy việc học tập của học sinh thì sự say mê, ham học của các em cũng rất
cần thiết và phải kết hợp giữa thầy và trò. Người thầy cũng cần có cái tâm
trong nghề nghiệp, nhiệt tình giảng dạy thì kết quả sẽ thành công.
Còn về phía học sinh, đòi hỏi phải tích lũy được những tri thức về văn
học, chính trò, đạo đức, lòch sử và những hiểu biết về cuộc sống để lí giải
những vấn đề đặt ra trong học tập, lao động, trong quan hệ với thầy cô, bạn
bè, cha mẹ, anh chò em trong gia đình, trong kiến thức thẩm mỹ… Thu thập
được vốn kiến thức như vậy thì các em mới có thể say mê học văn, cảm thấy
yêu thơ văn và yêu cuộc sống hơn.
Tóm lại: Điều quan trọng nhất để chứng tỏ cái tài lên của người giáo
viên là phải biết biến hóa bài giảng của mình làm sao cho giờ dạy đáp ứng
được thực tế lên lớp. Thực tế lên lớp là gì? Nhiều lắm: là thực tế tình hình
học sinh trong giờ, trình độ của các em, tâm lí của các em và sự chờ đợi tiếp
cận cũng như khi đi sâu vào bài giảng; là thực tế chỉ cho bài học phải đặt ra
nhiệm vụ gì, yêu cầu giáo dục giáo dưỡng ra sao; lại cả thực tế của bản thân
giáo viên nữa. Nắm được thực tế ấy để xử lí bài: Nếu là bài văn cổ, văn
dòch, văn nói về dân tộc thiểu số, văn liên quan đến lòch sử, chính trò … Thì
phải tạo không khí khác nhau. Phải chuẩn bò đặt câu hỏi như thế nào để giúp
học sinh động não, phải lường trước ở chặng nào, lúc nào thì có cách giải
quyết như thế nào. Do đó, mà giò lên lớp sẽ rất biến hóa: Biến hóa ngôn
Người thực hiện: Lê Thò Thuỳ Nhung
Trrường trung học cơ sở Thò Trấn Tam Đường
Phòng giáo dục và đào tạo Tam Đường – Tỉnh Lai Châu
13
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
ngữ, biến hóa thái độ, biến hóa không khí … Thì bài giảng mới có sự lôi
cuốn.
Tất nhiên, khi giảng bài người giáo viên phải giữ đúng tư cách của
mình. Người thầy không phải là một diễn giả đi diễn thuyết, không phải là
một nghệ só lên sân khấu, cũng không phải là một nhà truyền đạo hay là một
pháp sư. Nhưng môn Ngữ Văn là một môn học có những lợi thế nói trên, nên
tùy từng lúc giáo viên phải mượn những thủ thuật, những kinh nghiệm của
các nhà chuyên môn để làm cho bài dạy của mình có kết qua cao hơn. Có
như thế thì giờ dạy mới sự sắc nét được.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của tôi trong quá trình giảng dạy
bộ môn Ngữ Văn-THCS, được thực nghiệm tại trường THCS Thò Trấn Tam
Đường. T«i thÊy viƯc gi¶ng d¹y m«n Ng÷ V¨n nãi trªn t¹o ®ỵc niỊm tin
cho c¸c em häc tËp vµ n©ng cao hiƯu qu¶ giê d¹y ph¸t huy ®ỵc tÝnh tÝch
cùc – s¸ng t¹o cđa häc sinh ®ång thêi rÌn ®ỵc nhiỊu kü n¨ng kh¸c.
T«i mong ®ỵc sù gãp ý cđa c¸c ®ång chÝ!
T«i xin ch©n thµnh c¶m ¬n!
Tam §êng, ngµy 25 th¸ng 5 n¨m 2008
Ngêi viÕt
Lª ThÞ Th Nhung
HÕt
Người thực hiện: Lê Thò Thuỳ Nhung
Trrường trung học cơ sở Thò Trấn Tam Đường
Phòng giáo dục và đào tạo Tam Đường – Tỉnh Lai Châu
14
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
MỤC LỤC
Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ ……….………………………………………………………………………………………….1
1. Mục đích yêu cầu ………………………………………………………………………………. …1
2. Thức trạng ban đầu ………………………………………………………………………………… 2
3. Giải pháp đã sử dụng ………….……………………………………………………………………….3
Phần II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ………………………… ………………. 4
1. Cơ sở lí luận …………………………………………………………………….…………… 4
2. Giả thiết ……….……………………………………………….……………………… 5
3. Quá trình thử nghiệm sáng kiến
…………………………………………………………………………………. 7
4. Hiệu quả mới …………………………………………………………………………………11
Phần III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM …………………………………… 11
1. Kinh nghiệm cụ thể …………………………………………………………………………………11
2. Sử dụng sáng kiến …………………………………………………………………………………12
3. Kết luận và kiến nghò …………………………………………………………………………………12
MỤC LỤC …………………………………………………………………………………15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Phương pháp dạy học văn ở trường THCS.
2) Sách giáo khoa và sách giáo viên ngữ văn 6.
3) Sách giáo khoa và sách giáo viên ngữ văn 7.
Người thực hiện: Lê Thò Thuỳ Nhung
Trrường trung học cơ sở Thò Trấn Tam Đường
Phòng giáo dục và đào tạo Tam Đường – Tỉnh Lai Châu
15
Sáng kiến kinh nghiệm Môn: Văn
4) Sách giáo khoa và sách giáo viên ngữ văn 8.
5) Sách giáo khoa và sách giáo viên ngữ văn 9.
6) Tài liệu bồi dưỡng thường xun chu kì 3 mơn ngữ văn (2004 – 2007).
Người thực hiện: Lê Thò Thuỳ Nhung
Trrường trung học cơ sở Thò Trấn Tam Đường
Phòng giáo dục và đào tạo Tam Đường – Tỉnh Lai Châu
16