Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tìm hiểu quá trình làm sạch bề mặt và sơn vỏ tàu, chương 11 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.67 KB, 8 trang )

Chương 11:
Sơn áp lực cao ( Airless )
Nguyên tắc làm việc của máy phun sơn là dùng áp suất của khí
nén để đẩy sơn ra ngoài tạo thành sương mù bám vào bề mặt sản
phẩm. Thành phần của máy phun sơn gồm một động cơ điện, một
máy nén khí và một súng phun sơn.
● Nguy
ên lý phun áp lực cao:
Loại cổ điển: Với các thiết bị phun thông thường khí nén sẽ
phân tán các loại sơn. Với kiểu phun này, sơn được chứa trong một
bình đựng sơn ở ngay dưới súng phun hoặc chứa trong thùng
không dính li
ền với súng và được nối với súng bằng một ống nối.
Sơn được hút qua súng v
à phun qua vòi phun bằng không khí
có áp lực trung bình. Miệng phun được thiết kế theo cách trong đó
sơn được chuyển l
ên một lổ mở ở miệng vòi, còn khí nén chạy
theo một lỗ khác cũng trên miệng vòi phun. Tia sơn ra khỏi miệng
phun bị “ vỡ ra” bởi luồng không khí nén, ở đây sơn bị phân tán
nhỏ và bay ra về phía vật cần sơn.
Phương pháp sơn này sử dụng khí nén như là một phương tiện
vận chuyển sơn từ súng phun tới vật cần sơn. Vì vậy cần một
lượn
g khí rất lớn cho việc vận chuyển sơn, khi thổi tới cạnh luồng
khí, lượng khí n
ày kéo theo cả một ít sơn bay ra ngoài vật cần sơn.
Vì vậy với phương pháp phun này sẽ không tránh được hiện
tượng “ phun hạt sơn khô” và có nhiều chất thải ( sơn bay ra
ngoài). Tuy nhiên, ưu điểm của phương pháp này là tạo được một
bề mặt sơn đẹp hơn nhiều so với phương pháp phun áp lực cao. Nó


cũng dễ điều chỉnh nên là phương pháp tốt nhất cho các công việc
sơn cao cấp hơn.
Với phương pháp phun áp lực cao thì sơn bị nén dưới áp lực
cao tới miệng vòi của súng phun. Miệng phun này chỉ có một lỗ
nhỏ và sơn bị cưỡng bức đi ra khe hở của vòi phun và sơn bị phân
tán. Nếu áp lực bị giảm thì sơn tự nó bị nổ nghĩa là không có đủ
không khí để phân tán sơn hoặc không đủ lượng khí để chuyể
n hạt
sơn tới bề mặt cần sơn. Nhờ sử dụng phương pháp này nên lượng
sơn ra khỏi miệng phun sẽ nhiều hơn và số sơn bám vào bề mặt
nhiều hơn. Điều này có nghĩa là với phun áp lực cao sẽ ít bị hiện
tượng phun hạt khô. Nếu sử dụng phun áp lực cao và phun đúng
kỹ
thuật có thể không bị hiện tượng phun hạt khô hay lãng phí sơn.
Chi tiết quan trọng nhất của thiết bị sơn áp lực cao là miệng
phun. Nó có lõi là các – bít Vonfram và trên đó có khe hở để nén
sơn qua. Kích cỡ của các khe hở thay đổi t
ùy theo các loại miệng
phun khác nhau và quy
ết định góc phun và lượng sơn. Mức độ
thành công của việc phun sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc lựa chọn
miệng phun thích hợp.
Các miệng phun thích hợp sẽ được giới thiệu trong bảng thông
số kỹ thuật của từng loại sơn mà hãng sơn cung cấp. Tất nhiên
nh
ững thông số đó chỉ mang tính hướng dẫn nhưng nếu thử một
vài miệng phun sẽ tìm ra được một kích cỡ phù hợp và cho kết quả
tốt nhất.
Lưu
ý là miệng phun sẽ bị mòn và rộng ra sau một thời gian sử

dụng và kích cỡ của khe hở cũng sẽ thay đổi. Phải sử lý miệng
phun một cách cẩn thận. Không bao giờ sử dụng vật kim loại để
thông miệng phun bị tắt. Nếu cần thiết có thể sử dụng que gỗ -
không bao gi
ờ được dùng bất cứ vật gì cứng hơn. Nên nhớ là
mi
ệng phun rất đắt và là chi tiết quan trọng nhất trong thiết bị phun
áp lực cao. Vì thế cần thao tác một cách cẩn thận. Cũng phải đảm
bảo là sử dụng miệng phun phù hợp cho mỗi loại công việc.
Ghi chú: Sơn bằng phun áp lực cao phải thực hiện một cách
chính xác để đạt được kết quả theo mong muốn. V
ì một lượng lớn
sơn xuyên qua v
òi phun ( khoảng 1,8 lít trong một phút đối với
miệng phun cỡ 0,021 inches) nên điều quan trọng là phải di chuyển
chúng điều đặn v
à ở khoảng cách phù hợp với bề mặt, tức từ 30-
60cm ( 12-14inches).
Ph
ải giữ súng phun vuông góc với bề mặt trong suốt lượt sơn
và mỗi lượt di chuyển súng phải phủ đè mí lượt trước 50%.
Nên nhớ là nếu khoảng cách giữa súng và bề mặt quá xa sẽ
gây ra hiện tượng phun hạt khô, làm tổn thất sơn, tạo các lỗ trống,
ngậm không khí và làm bề mặt sơn không mịn.
Lưu
ý : Không sử dụng áp suất cao hơn thông số cần thiết để
phân tán sơn ở mức độ mong muốn.
3.2.6 Quy trình sơn vỏ tàu
Công việc làm sạch bề mặt được tiến hành khi đưa tàu vào
Dock :

-
Đầu tiên là tiến hành rửa sạch bề mặt toàn bộ bề mặt vỏ tàu
b
ằng phun nước ngọt áp suất cao (hoạt động tại áp suất 680 –
1700bar). N
ếu bề mặt có dầu mỡ, hóa chất thì tiến hành rửa bằng
hóa chất trước hay có hà thì tiến hành sủi, rồi tiến hành rửa nước.
Việc rửa nước này chủ yếu loại bỏ muối, dầu, bụi, một số tạp chất
bám trên bề mặt…
- Công việc rửa nước được tiến hành bằng súng bắn nước áp
lực cao kết hợp với máy rửa nước. Để sử dụng hai thiết bị này cần
có sự hỗ trợ của xe nâng.
Chú ý: Khi sử dụng súng bắn nước thì nên điều khiển súng
cách bề mặt làm việc 2 – 3 m và góc độ của súng 15 – 30
0
lay súng
ch
ậm về hướng trên dưới trái phải, chú ý các chỗ gờ, góc cạnh, làm
như vậy bề mặt mới được sạch.
Sau khi xử lý bề mặt thì tiến hành xử lý bề mặt vỏ bằng
phương pháp phun cát + Tùy theo yêu cầu của chủ tàu, yêu cầu
của hệ sơn mà tiến hành phun cát theo tiêu chuẩn nào cho
thích h
ợp. Thường thì bề mặt phun cát vỏ tàu tối thiểu phải đạt
đến ti
êu chuẩn Sa2 đến Sa2.5 theo tiêu chuẩn ISO 8501-1. Có
th
ể tiến hành thổi cát cho từng phần vỏ tàu để tránh oxy hóa bề
mặt trước khi sơn.
+ Duy trì áp suất máy bắn cát từ 7 -8 kg/cm

2
thì mới đạt tiêu
chu
ẩn bắn cát hay tiết kiệm được khối lượng cát.
+ Không nên tiến hành thổi cát khi trời sắp mưa, gió mạnh,
nhiều sương hay thời tiết quá ẩm vì như thế bề mặt sẽ mau rỉ sét lại
do có hơi nước.
+ Nên thổi theo hướng mà các hạt văng ra sẽ che phủ bề mặt
đ
ã được thổi như vậy sẽ bảo vệ bề mặt khỏi ô nhiễm bởi hơi muối.
+ Mài nhẵn và làm sạch những gờ, tạp chất còn lại bằng máy
mài và bàn chải sắt.
Sau khi thổi cát xong ta tiến hành sơn
Trước khi sơn ta tiến h
ành thổi khí nén làm sạch bề mặt.
+ Phân chia khối lượng sơn ở những khu vực theo bảng hệ sơn
( tham khảo phần phụ lục).
+ Pha sơn theo chỉ dẫn ở bảng hệ sơn.
+ Kiểm tra bề mặt không có hiện tượng đọng sương trên bề
mặt thép.
+ Không sơn khi độ ẩm lớn hơn 80%.
+ Không sơn khi tốc độ gió từ 40km/h trở l
ên, nếu sơn thì phải
có sự thỏa thuận của chủ tàu và hãng sơn.
+ Tiến hành sơn lớp thứ nhất bằng máy phun sơn áp lực cao
ngay khi kết thúc công tác làm sạch bề mặt. Không dùng cọ lăn
(rulo) cho lớp sơn thứ nhất.
+ Trong trường hợp bề mặt thổi cát bị oxy hóa, nhiễm bẩn trở
lại trước khi tiến hành sơn thì phải tiến hành phun cát làm sạch bề
mặt trở lại theo tiêu chuẩn đã được đặt ra ban đầu.

+ Các góc cạnh đường hàn, vị trí khó tiếp cận bởi súng phun
và các vùng bị rỗ nặng phải được sơn dặm bằng cọ sơn (chổi sơn)
để đạt được độ che phủ đồng đều v
à chiều dày đã định.
+ Rửa nước ngọt làm sạch bề mặt vỏ tàu sau khi kết thúc lớp
sơn lót nhằm
làm sạch bụi bẩn bám trên bề mặt và chờ khô hoàn
toàn.
+ Sơn các lớp kế tiếp bằng máy phun sơn áp lực cao theo bảng
hệ sơn đã được chỉ định.
+ Sơn dặm lại những chỗ mỏng v
à thiếu sót.
Thường th
ì bề mặt vỏ tàu luôn được sơn với nhiều lớp (thông
thường chỉ c
ó 5 lớp). Tùy theo yêu cầu, đặc điểm của mỗi tàu mà
người ta dùng các hệ sơn khác nhau và thứ tự của các lớp sơn cũng
khác nhau. Nhưng chung lại th
ì có các lớp sơn sau : 2 lớp sơn
chống gỉ đầu tiên + lớp chuyển tiếp kết dính cho lớp tiếp theo + 2
lớp chống hà.
Chú ý :
- Trong bất kì trường hợp nào, bề mặt trước khi sơn phải
sạch khô và không có các tạp chất bẩn dầu mở. Chờ các lớp sơn
khô hoàn toàn trước khi sơn lớp kế tiếp
- Thường thì lớp đầu là lớp chống gỉ đến những lớp ngoài là
các l
ớp sơn bảo vệ và tùy theo từng phần bề mặt làm việc như đáy
mạn tàu thì có các hệ sơn khác nhau. Thông thường sơn chống hà
được sơn trước khi tàu hạ thủy được vài ngày tùy theo kế hoạch

xuống Dock của nhà máy nhưng phải tuân theo thời gian khô tối
thiểu để hạ thủy.
Thời gian khô tối thiểu được quy định để hạ thủy là 12 giờ kể
từ khi kết thúc lớp sơn chống hà cuối cùng.
Sơ đồ quy trình sơn vỏ tàu :
Thổi khí nén
làm s
ạch
Pha sơn
Kiểm tra bề
m
ặt
Sơn lót
Rửa nước
ng
ọt
Sơn phủ
Hạ thủy
Sơn chống hà

×