Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Cách cài đặt Win XP có hình minh họa (New)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.15 KB, 9 trang )


Cách Cài Đặt Windows XP
Hiện nay hầu hết các máy vi tính mới đều được cài sẵn một hệ điều hành nào đó và thông thường là
Windows XP, cho nên có nhiều người chưa từng cài đặt Windows XP bao giờ.
Đôi khi bạn cần phải cài đặt Windows XP trong các trường hợp sau:
Bạn mua (hoặc tự ráp) máy vi tính mới.
Bạn thay ổ dĩa cứng mới.
Máy của bạn bị Virus, các chương trình bị lỗi nhiều
Sau một thời gian sử dụng, bạn muốn cài lại một hệ điều hành mới với các chương trình mới theo ý bạn
Đừng quá lo lắng, công việc không đòi hỏi bạn phải là một chuyên viên vi tính, chỉ mất khoảng từ 1 đến 2 giờ mà thôi.
Bạn cần phải chuẩn bị:
Máy vi tính của bạn phải có ổ dĩa quang (CD-ROM, DVD-ROM )
Đã được thiết lập để có thể khởi động từ dĩa CD.
Dĩa CD Windows XP (Home, Professional ) và mã số kèm theo dĩa.
Sau đây là các bước cài đặt Windows XP:
1. Trước tiên hãy bật máy vi tính lên, đừng quan tâm nhiều đến những gì hiện ra trên màn hình. Cho dĩa Windows XP
vào ổ dĩa CD, khởi động (Restart) lại máy bằng cách nhấn nút Reset hoặc tổ hợp phím Ctrl + Alt + Del.
2. Khi hiện lên màn hình chọn khởi động từ CD, hãy nhấn một phím bất kỳ trên bàn phím để chấp nhận. Lưu ý màn hình
chỉ hiện lên vài giây, nếu không kịp bạn hãy cho máy khởi động lại và làm lại.
3. Windows bắt đầu được cài đặt, lúc này bạn không thể sử dụng chuột được cho nên hãy sử dụng bàn phím. Khi hiện ra
màn hình Welcome to Setup, hãy nhấn phím Enter.
4. Tại màn hình Windows XP Licensing Agreement, bạn có thể đọc nếu muốn, sau đó nhấn phím F8.
5. Màn hình kế tiếp sẽ cho bạn lựa chọn cài đặt Windows XP lên ổ dĩa nào (nếu có nhiều ổ dĩa), ở bước này bạn có thể
tạo các phân vùng (nhấn C) hoặc xóa các phân vùng (nhấn D và sau đó nhấn L có chỉ dẫn bên dưới gốc trái màn hình
BIOS) có sẵn của ổ dĩa cứng. (Thông thường lệnh điều hành chính các bạn nên cho nằm trong C)
6. Nhấn Enter để chọn Unpartitioned space, mặc nhiên nó đã được chọn sẵn.
7. Màn hình này sẽ cho bạn chọn định dạng (Format) phân vùng, hãy chọn kiểu mà bạn muốn hoặc chọn Format the
partition using the NTFS file system rồi nhấn Enter.
#5
Thêm tài liệu cho các bạn tham khảo!


Cách cài đặt Windows XP (phần 1)
8 tháng sau khi ra đời, Windows XP đã trở nên phổ biến nhờ nhiều tính năng mới và sự ổn định vượt
trội so với các phiên bản trước. Sắp tới, bản sửa lỗi Service Pack 1 (SP1) của hệ điều hành này sẽ
được tung ra. Nếu bạn muốn nâng cấp hệ điều hành của mình, dưới đây là một số thông tin về việc
cài đặt Windows XP.
Xác định cấu hình phù hợp
Hệ điều hành ra sau luôn yêu cầu cấu hình của phần cứng (CPU, RAM, Video, Hard drive v.v.) cao
hơn các hệ điều hành trước đó. Cấu hình tối thiểu của Windows XP (theo Microsoft) như sau:
- CPU: 233 Mhz.
- RAM: 64 MB.
- Card màn hình (video card): Super-VGA với độ phân giải tối thiểu 800 x 600.
- Ổ đĩa cứng (Hard drive): 1,5 GB trống (chưa sử dụng).
- Ổ đĩa quang (CD hoặc DVD).
- Chuột và bàn phím.
Tuy nhiên, với cấu hình tối thiểu, hệ điều hành sẽ chạy rất chậm. Nếu máy tính của bạn đã sử dụng
2,5-3 năm thì có lẽ bạn hãy nâng cấp phần cứng trước khi cài Windows XP. Để hệ điều hành này
chạy ở mức độ “chấp nhận được” thì cầu hình của máy nên tương đương:
- CPU: 500 Mhz.
- RAM: 256 MB.
- Video: hỗ trợ 3D với 8 MB video RAM (VRAM) trở lên.
- Hard drive: ATA-66 hoặc nhanh hơn với khoảng 10 GB trống. Ổ cứng cũng nên có bộ nhớ đệm
(buffer memory) 512 K trở lên.
- Ổ đĩa quang (CD hoặc DVD với chuẩn ATAPI, CD nên có tốc độ từ 8x trở lên).
- Chuột và bàn phím theo chuẩn PS/2.
Cấu hình càng cao thì càng tăng hiệu suất của hệ thống.
Nhận dạng các thiết bị ngoại vi
Do Windows XP có một giao diện hoàn toàn mới, sử dụng nhiều màu sắc và không gian 3 chiều
(3D) cho các Task Bar cũng như các cửa sổ và hộp thoại, video card đóng một phần khá quan trọng
cho hiệu suất của máy. Để Windows XP thể hiện tốt giao diện 3D, card màn hình cần có từ 16 MB
VRAM trở lên.

Các thiết bị ngoại vi khác (âm thanh, modem, card mạng v.v.) cũng phải thuộc loại khá mới và
được sản xuất bởi các công ty có tên tuổi. Những thiết bị này được lắp vào máy qua các khe cắm
(I/O Slot) trên bo mạch chủ (motherboard). Có 3 loại khe cắm phổ biến, bao gồm: ISA, PCI và
AGP, được phân biệt với nhau về màu sắc và vị trí trên motherboard. Hầu hết các máy tính để bàn
đều có từ hai khe cắm PCI trở lên, còn các khe cắm ISA chỉ có phổ biến ở các máy cũ (250 Mhz
hoặc chậm hơn), cũng như AGP chỉ phổ biển ở máy mới (500 Mhz hoặc nhanh hơn).
Tuy nhiên, khá nhiều motherboard có cả 3 loại khe cắm này. Khe cắm AGP (thường có màu nâu
hoặc xanh) nằm ở trên cùng. (Nếu có thì mỗi motherboard chỉ có 1 khe cắm này để dùng cho video
card.) Các khe cắm PCI (màu trắng) sẽ ở bên dưới khe cắm AGP, và các khe cắm ISA (màu đen) ở
dưới cùng. Các thiết bị PCI có hiệu suất cao hơn những thiết bị cùng loại sử dụng khe cắm ISA.
Tương tự, card màn hình AGP thì nhanh hơn card PCI. Hầu hết các thiết bị ISA sẽ không thương
thích với Windows XP. Tốt nhất là dùng card màn hình AGP cho Windows XP.
Để tiết kiệm khe cắm, một số motherboard có âm thanh và video gắn kèm (on-board), các thiết bị
âm thanh và video on-board thường có hiệu suất kém hơn những thiết bị lắp thêm vào (và đồng
thời cũng không nâng cấp được). Tuy gắn kèm nhưng các thiết bị này cũng tuân theo chuẩn AGP
hoặc PCI.
Tên của card màn hình, tốc độ CPU, số lượng RAM, tên ổ đĩa cứng và một số thiết bị khác thường sẽ
xuất hiện mỗi lần máy được bật lên. Để biết cụ thể về tên của các thiết bị, bạn có thể làm theo
những bước sau trong Windows 9x/Me:
Start -> Settings -> Control Panel -> System; chọn tab “Device Manager” (nếu là Windows
2k thì chọn tab “Hardware” rồi nhấn vào nút “Device Manager”), tiếp theo kích đúp chuột vào
tên các thiết bị trong danh sách.
Ngoài ra, còn một cách khác là mở máy và đọc thông số bên trên các thiết bị.
Trình điều khiển
Sau khi biết tên các thiết bị, bước tiếp theo là tìm hiểu xem chúng có tương thích với Windows XP
hay không. Hệ điều hành quản lý và làm việc với các thiết bị ngoại vi thông qua một phầm mềm
chuyên dụng gọi là “trình điều khiển” (hay driver). Một thiết bị sẽ tương thích với hệ điều hành khi
nó có trình điều khiển dành cho hệ điều hành đó.
Bản thân Windows XP tích hợp rất nhiều trình điều khiển chung (generic drivers) để trực tiếp hỗ trợ
cho phần lớn thiết bị phổ biến. Để biết những thiết bị nào của máy tính không được Windows XP hỗ

trợ, bạn có thể khởi động hệ điều hành hiện thời (Windows 9x/Me/2k) rồi chạy Windows XP Setup,
khi màn hình Welcome to Microsoft Windows XP hiện ra, bạn chọn nút "Check System
Compatibility”, tiếp theo chọn “Check my system automantically” (Nếu máy nối mạng Internet thì
dùng tuỳ chọn cho phép “download updated Setup files” trước khi tiếp tục). Lúc này, chương trình
Setup sẽ tìm hiểu hệ thống và đưa ra một danh sách về các phần cứng và phần mềm không tương
thích.
Các nhà sản xuất cũng tạo ra các trình điều khiển dành cho thiết bị để người dùng có thể tải về từ
trang web của họ. Những phiên bản mới của trình điều khiển sẽ tốt hơn các phiên bản cũ. Windows
XP ra đời đã khá lâu, vì vậy hầu hết các thiết bị có thể hoạt động được với hệ điều hành này đều đã
có trình điều khiển. Tuy nhiên, trong trường hợp không có, trình điều khiển dành cho Windows 2000
có thể sẽ thay thế được.
Lưu ý: Chỉ nên cài hệ điều hành mới khi có đủ các trình điều khiển.
BIOS
Khi máy tính bật lên, trước khi khởi động vào một hệ điều hành, bạn có thể thấy khá nhiều thông
tin hiện ra trên màn hình. Các thông tin này được thể hiện nhờ BIOS.
BIOS (Basic Input/Output System) có nhiệm vụ nhận dạng, kiểm tra và quản lý ở mức thấp các
thiết bị để máy tính, bao gồm: card màn hình, CPU, RAM, ổ cứng, chipset và các thiết bị ngoại vi
khác. Có nhiều mẫu BIOS với những chức năng khác nhau, tuy nhiên trên thực tế chúng đều là các
phần mềm được cài cố định trên một chip bán dẫn ROM (Read Only Memory). Các thông số của
BIOS cũng như thông tin về ngày tháng được chứa tại CMOS, một chip bán dẫn khác hoạt động
bằng pin và độc lập với nguồn điện của máy.
BIOS chỉ hỗ trợ những hệ điều hành ra đời cùng hoặc trước thời điểm bo mạch chủ được sản xuất.
Vì vậy, các BIOS trước Windows XP sẽ có nhiều khả năng không hỗ trợ tốt hệ điều hành này. Tương
tự như trình điều khiển, nhà sản xuất thường viết các phiên bản mới cho BIOS để sửa lỗi hoặc để
hỗ trợ các hệ điều hành mới và người dùng có thể tải về từ trang web của họ. Cách nâng cấp BIOS
khác nhau tuỳ từng loại. Tuy nhiên, đây là quá trình cần được làm một cách cẩn thận theo đúng
hướng dẫn của nhà sản xuất. Bạn chỉ nên nâng cấp BIOS khi cần thiết.
Cách cài đặt Windows XP (phần 2)
Việc cài đặt Windows XP chỉ nên tiến hành khi bạn biết phần cứng và phần mềm (đang và sẽ dùng)
tương thích với hệ điều hành. Bên cạnh đó, hiểu về bản thân hệ điều hành và các kiểu định dạng,

phân vùng ổ đĩa cũng rất quan trọng.
Các phiên bản của Windows XP
Windows XP có hai phiên bản: Home và Professional (Pro). Bản Pro có tất cả các tính năng của bản
Home và thêm những điểm sau:
1. Remote Desktop: người dùng có thể sử dụng máy tính (chạy Windows XP Pro) từ xa bằng một
máy tính khác thông qua kết nối TCP/IP (mạng nội bộ hay Internet).
2. Khả năng tham gia vào domain: Cho phép người dùng truy cập vào hệ thống mạng lớn dưới dạng
một workstation.
3. Hỗ trợ Encrypting File System (EFS): hệ thống mã hoá file cho phép người dùng mã hoá các thư
mục và file để đảm bảo bí mật.
4. Chức năng hoàn trả lại hệ thống (System Restore) của Windows XP Pro mạnh hơn của Windows
XP Home. Windows XP Pro còn có khả năng phúc hồi trình điều khiển (Driver rollback) cho phép sử
dụng lại phiên bản trước của trình điều khiển nếu phiên bản mới cài vào gây lỗi.
5. Hỗ trợ máy tính có 2 bộ vi xử lý (CPU).
Windows XP Home chỉ có duy nhất một lợi thế so với Windows XP Pro, đó là rẻ hơn.
Ngoài ra, mỗi phiên bản của Windows XP còn chia thành bản đầy đủ (Full) và bản nâng cấp
(Upgrade). Bản Upgrade rẻ hơn bản Full. Tuy nhiên chỉ có thể cài đặt vào những máy đã đang sử
dụng Windows. Bản Upgrade của Windows XP Home cho phép bạn nâng cấp lên từ Windows 98
hoặc Me. Bản Upgrade của Windows XP Pro cho phép bạn nâng cấp lên từ Windows 98/Me hoặc 2K.
Khi mua, nếu không thấy ghi là Upgrade thì có nghĩa đó là bản Full.
Lưu ý: Nếu bạn đang sử dụng Windows XP Home, bạn cũng có thể nâng cấp lên Windows XP Pro.
Các định dạng (format) của đĩa cứng
Tương tự như Windows 2000, Windows XP hỗ trợ cả hai định dạng của đĩa cứng là FAT32 và NTFS
(FAT16 cũng được hỗ trợ. Tuy nhiên, định dạng này chỉ cho phép tạo ổ đĩa có độ lớn không quá 2,1
GB).
Nếu so sánh thì NTFS có những điểm sau đây ưu việt hơn FAT:
1. Chấp nhận lỗi của đĩa: NTFS cho phép hệ điều hành biết và không ghi thông tin lên phần đĩa đã
bị hỏng (nếu có) để đảm bảo tính toàn vẹn của thông tin.
2. Bảo mật: NTFS hỗ trợ các mức bảo mật khác nhau cho đến từng file cụ thể. Ngoài ra NTFS hộ trợ
EFS tạo điều kiện cho người dùng tăng tính năng bảo mật bằng cách mã hoá file và thư mục.

3. Nén file và thư mục: NTFS cho phép bạn nén thông tin lại để tiết kiện ổ đĩa. Điều này có thể thực
hiện dễ dàng trên toàn ổ đĩa, hay ở mức thư mục hoặc file.
4. Quản lý và hạn chế tài nguyên: cho phép quản trị mạng hạn chế mức độ, dung lượng đĩa mà một
người dùng cụ thể có thể sử dụng.
Nhìn chung, chỉ NTFS mới cho phép sử dụng hết các tính năng về quản lý tài nguyên của Windows
XP (đặc biệt là đối với bản Pro).
Tuy nhiên, DOS và Windows 9x/ME không hỗ trợ định dạng NTFS (không nhận dạng, đọc/ghi được).
Vì vậy sẽ có 2 lý do để cài Windows XP mà dùng định dạng FAT32:
1. Nếu bạn muốn sử dùng hệ điều hành Windows 98/95 hoặc ME trên cùng một máy với Windows
XP.
2. Nếu bạn muốn có thể khởi động máy vào DOS để sửa chữa hoặc thay đổi khi hệ thống bị trục
trặc.
Việc tạo phân vùng và định dạng đĩa không cần thiết phải được thực hiện trước khi cài đặt mới.
Chương trình Setup của Windows XP làm việc này một cách rất nhanh gọn.
Tạo thêm ổ đĩa
Ổ đĩa mà được thể hiện bằng các ký tự C:\ hoặc D:\ trên thực tế là những “phân vùng” (partition).
Trên một ổ cứng (thiết bị lưu trữ được lắp vào máy), có thể tạo ra một hoặc nhiều partition. Việc
tạo ra các partion như vậy gọi là “phân vùng cho ổ đĩa”. Mỗi phân vùng trên ổ cứng sẽ được hệ điều
hành gắn cho một chữ cái để làm tên, phân vùng cần được định dạng (format) trước khi có thể hoạt
động như một ổ đĩa. Tổng dung lượng của các phân vùng trên cùng một đĩa cứng sẽ tương đương
dung lượng của đĩa cứng đó.
Nếu bạn chỉ dùng 1 hệ điều hành thì không cần thiết phải có nhiều hơn một ổ đĩa. (Mặc dù có 2 ổ
đĩa trở nên rất thuật tiện cho việc sao lưu dữ liệu hoặc sửa chữa máy). Tuy nhiên, nếu bạn muốn
cài đặt nhiều hệ điều hành trên cùng một máy thì việc tạo ra nhiều ổ đĩa là điều không tránh khỏi.
Có hai cách để tạo thêm ổ đĩa: Tạo ra nhiều ổ đĩa trên một đĩa cứng hoặc lắp thêm đĩa cứng.
1. Phân vùng đĩa cứng:
Nếu là đĩa cứng mới, việc phân vùng có thể làm bằng Fdisk (có trong đĩa khởi động của Windows
98: khởi động vào DOS rồi gõ Fdisk tại dấu nhắc, sau đó nhấn Enter) hoặc chỉ cần cài đặt hệ điều
hành từ ổ CD-ROM, chương trình cài đặt sẽ thực hiện công việc này.
Nếu là đĩa cứng hiện đang được sử dụng, bạn cần dùng một số tiện ích để làm việc này. Hiện thời

Partition Magic 7.0 của PowerQuest là tốt nhất.
Sử dụng một đĩa cứng với nhiều phân vùng có điểm lợi là tiết kiệm cả về không gian bên trong vỏ
máy, cũng như tài chính và công sức (không cần phải mở máy ra và lắp đặt thiết bị). Ngoài ra,
không phải máy nào cũng có đủ nguồn điện và cho một thiết bị mới. Tuy nhiên, cách này có một số
bất lợi sau:
- Tốc độ chậm: Do nằm cùng một đĩa cứng cơ học nên việc di chuyển file giữa các ổ đĩa (phân
vùng) sẽ chậm hơn nhiều so với tốc độ thực của đĩa cứng.
- Không an toàn cho việc sao lưu: vì cùng nằm trên một đĩa cứng, nếu đĩa cứng này bị hỏng cơ học
thì toàn bộ thông tin trên tất cả các ổ đĩa sẽ bị ảnh hưởng.
- Không tận dụng được tính năng “prefetch” của Windows XP: Windows XP sẽ tự động sắp xếp các
file thường xuyên được truy cập vào cùng một chỗ để tăng tốc độ truy cập. Điều này sẽ bị ảnh
hưởng nếu các file này lại nằm ở các ổ đĩa khác nhau trên cùng một đĩa cứng.
2. Lắp thêm ổ cứng:
Đây là biện pháp tốt nhất, nhưng yêu cầu phải có không gian và nguồn điện bên trong vỏ máy. Lắp
thêm đĩa cứng và cài mỗi hệ điều hành trên một đĩa cứng (trong trường hợp này, mỗi đĩa cứng chỉ
có một partition), sẽ làm cho hệ điều hành hoạt động tốt hơn. Đồng thời, việc di chuyển file sẽ
nhanh hơn và sao lưu cũng an toàn hơn. Nếu bạn định cài Windows XP theo kiểu dual boot cùng với
một hệ điều hành khác, lắp thêm một đĩa cứng là việc rất nên làm. Các đĩa cứng đời mới sẽ tận
dụng được những tính năng của Windows XP tốt hơn.
Lưu ý: Nếu lắp thêm đĩa cứng vào cùng một cáp IDE với ổ đĩa cũ, jumper của đĩa cứng mới cần
phải để ở chế độ Slave và jumper của đĩa cứng cũ phải để ở chế độ Master. Không nên để đĩa cứng
và đĩa quang sử dụng chung một cáp IDE vì điều này sẽ làm chậm tốc độ của đĩa cứng. Với đĩa
cứng có tốc độ từ ATA-66 hoặc nhanh hơn cần dùng cáp IDE loại 80-pin.
Cách cài đặt Windows XP (phần 3)
Có 3 kiểu chính để cài đặt Windows XP: nâng cấp (Upgrade), cài mới (Clean Install) và cài chung
với một hệ điều hành khác (Dual boot). Mỗi cách đều có các biến thể tùy theo từng cấu hình cụ thể.
Dưới đây là những nét chung nhất của mỗi kiểu.
Upgrade
Đây là kiểu đơn giản nhất, phù hợp với những người không biết nhiều về máy tính. Nâng cấp sẽ cho
phép bạn sử dụng lại tất cả những thông tin cũng như phần mềm bạn đang dùng ở phiên bản

Windows cũ (với điều kiện các phầm mềm này phải tương thích với Windows XP).
Tuy nhiên, cài đặt theo kiểu nâng cấp sẽ khiến Windows XP sau này chạy chậm và có thể kém ổn
định. Ngoài ra, một số phầm mềm (dù tương thích) vẫn cần phải được cài đặt lại sau khi quá trình
nâng cấp đã hoàn thành. Tốt nhất, nếu có các đĩa cài đặt thì nên loại bỏ (uninstall) các phần mềm
đi trước và cài đặt lại, sau khi đã nâng cấp. Nâng cấp một hệ thống với quá nhiều phần mềm cài
đặt trong đó sẽ có thể gây nhiều lỗi sau này.
Cả phiên bản Upgrade và Full của Windows XP đều cho phép cài đặt nâng cấp.
Cách làm:
Khởi động vào Windows hiện thời rồi cho đĩa cài đặt của Windows XP vào ổ CD-ROM, chương trình
Setup sẽ tự chạy (nếu không bạn có thể dùng Windows Explorer tìm đến ổ CD chứa đĩa cài đặt rồi
nhấn đúp chuột lên file có tên “Setup”). Việc cài đặt sẽ bắt đầu và tiến hành theo 5 bước sau:
1. Collecting information (thu thập thông tin): Đây là bước mà trình Setup sẽ tìm hiểu về cách
mà bạn muốn cài đặt Windows XP.
- Tại bảng lựa chọn màu xanh vừa hiện ra, bạn chọn “Install Windows XP”.
- Chọn giá trị của “Installation type” là “Upgrade (recommended)” rồi nhấn “Next”.
- Chọn “I accept this aggrement” -> nhấn chuột vào “Next”.
- Gõ vào “Production key” -> nhấn chuột vào “Next”.
2. Dynamic Update (cập nhật “nóng”):
- Nếu bạn có kết nối vào Internet thì chọn “Yes, download updated setup files ” (nếu không thì
chọn “No, skip this ”) rồi nhấn chuột vào “Next”. Nếu “Yes ” chương trình Setup sẽ tải về các
update của trình Setup trước khi tiếp tục. Việc này sẽ mất khoảng 5-15 phút tùy theo tốc độ kết
nối. Nếu “No ” bước sẽ này được bỏ qua. (Dù “Yes” hay “No”, phần còn lại của Setup cũng sẽ
không có điều gì khác nhau và có thể nhận thấy trong trình tự và hoạt động).
3. Preparing installation (chuẩn bị cài đặt): - Setup sẽ kiểm tra cấu hình hiện thời và đưa ra
một danh sách những phần cứng và mềm không tương thích. (Danh sách này sẽ không hiện ra nếu
máy tính hoàn toàn tương thích với Widnows XP). Loại bỏ (Uninstall) các phần mềm và chuẩn bị sẵn
driver cho các phần cứng có tên trong danh sách này.
- Tiếp theo, trình Setup sẽ copy các file cần thiết từ CD vào hai thư mục tạm thời trên ổ cứng C:\.
Các thư mục này có tên bắt đầu bằng dấu $ và chúng sẽ bị xoá bỏ sau khi quá trình cài đặt kết
thúc. Bạn có thể huỷ bỏ việc copy này (cũng là huỷ bỏ việc cài đặt) bằng cách nhấn phím Esc.

- Sau khi việc copy được hoàn thành, Windows sẽ tự động khởi động lại.
4. Installing Windows (Cài đặt Windows):
- Đây là phần mà Windows sẽ được cài đặt từ những thông tin đã được copy vào các thư mục tạm
thời nói trên. Tuy nhiên, với kiểu Update thì bước này và bước tiếp theo sẽ hoàn toàn được tự động
hoá và không cần sự tham gia của bạn.
5. Finalizing Installation (Hoàn thành việc cài đặt):
- Đây là bước mà quá trình cài đặt được hoàn thành. Bước này cũng hoàn toàn được tự động hoá.
Windows XP sẽ dùng lại những thông tin về hệ thống của phiên bản Windows cũ.
Chú ý: Nên sao lưu (Backup) dữ liệu trước khi nâng cấp hệ điều hành. Sau khi nâng cấp lên
Windows XP, bạn sẽ không thể “xuống cấp” để quay trở lại phiên bản Windows trước đó.
Dual Boot
Kiểu này thường được hiểu là cài đặt thêm Windows XP để chạy song song với hệ điều hành hiện
thời, cho phép người dùng lựa chọn giữa hai hệ điều hành mỗi lần khởi động máy.
Để làm được cách này, máy của bạn cần có ít nhất là hai ổ đĩa. Bài viết sẽ nói về trường hợp hai ổ
đĩa này là C:\ và D:\ với hệ điều hành cũ được cài trên C:\. (Dual boot phổ biến và hợp lý nhất là
giữa hai hệ điều hành Windows 98 SE và Windows XP).
Cả hai phiên bản Full và Upgrade của Windows XP đều cho phép cài đặt dual boot.
Cách cài đặt này cũng bao gồm 5 bước tương tự kiểu Upgrade, nhưng có một số khác biệt.
Cách làm:
Khởi động máy vào phiên bản Windows hiện thời, cho đĩa cài đặt của Windows XP vào rồi làm theo
các bước: (phần in nghiêng là phần khác với kiểu Upgrade):
1. Collecting information:
- Tại bảng lựa chọn màu xanh vừa hiện ra, bạn chọn “Install Windows XP”.
- Chọn giá trị của “Installation type” là “Clean Install (Advanced)” rồi nhấn “Next".
- Chọn “I accept this aggrment” -> nhấn chuột vào “Next”.
- Gõ vào “Production key” -> nhấn chuột vào “Next”
- Nhấn chuột vào phần bên cạnh “Select primary language and region you want to use” để chọn các
chuẩn vùng (đo lường, thời gian, khối lượng v.v ) và ngôn ngữ chính mà bạn muốn dùng với
Windows (đây là ngôn ngữ mà bạn muốn sử dụng, không phải là ngôn ngữ cho giao diện của
Windows XP).

- Nếu muốn Windows XP hỗ trợ các kiểu chữ của Đông Nam Á(Trung Quốc, Thái Lan v.v ) thì bỏ
dấu chọn vào đằng trước “Install Support for East Asian Languages”. Tiếp theo nhấn chuột vào
“Next”.
- Nếu định dạng của ổ đĩa hiện thời là FAT, Setup sẽ gợi ý chuyển sang NTFS, mục này phải được
chọn là không (“No, skip this step”).
2. Dynamic Update: Bước này hoàn toàn giống với kiểu Upgrade.
3. Preparing installation: Ở bước này, Setup sẽ không kiểm tra sự tương thích của máy. Phần
còn lại cũng giống với kiểu Upgrade.
4. Installing Windows: (bước này rất khác với kiểu Upgrade và bạn cần phải tham gia để gõ
thông tin vào theo yêu cầu của máy).
- Lần khởi động lại đầu tiên sẽ có hai sự lựa chọn, hoặc là vào Windows XP Setup, hoặc là vào phiên
bản cũ của Windows. Nhấn Enter để chọn hoặc chờ, sau 5 giây, máy sẽ tự động boot vào Windows
XP Setup.
- Một màn hình màu xanh hiện ra với 3 sự lựa chọn:
+ Nhấn Enter để tiếp tục với việc cài đặt.
+ Nhấn R để boot vào Recorver Console.
+ Nhấn F3 để hủy bỏ việc cài đặt -> Enter.
- Lúc này Setup sẽ kiểm tra đĩa cứng và chọn phân vùng để cài đặt Windows lên. Thường Setup sẽ
tự động chọn ổ đĩa D:\. Tuy nhiên, bạn có thể nhấn Esc để tự chọn hoặc phân vùng đĩa cứng mới.
Chú ý phải chọn cài Windows XP lên ổ đĩa khác với C:\.
- Sau khi chọn ổ đĩa xong, việc cài đặt sẽ được tiến hành. Nếu máy có Modem và Card mạng (và
các thiết bị này được Windows XP hỗ trợ trực tiếp), Setup sẽ hỏi về các thông số của Modem và
Mạng. Gõ vào những thông số này hoặc chấp nhận các lựa chọn mặc định.
5. Finalizing Installation:
- Đây là một số thủ tục ban đầu cho việc sử dụng Windows XP lần đầu tiên, gồm: tạo account mới,
kết nối Internet, “Product Activation” và đăng ký với Microsoft. Product Activation không tồn tại
trong các bản Windows XP dành cho các công ty lớn (còn gọi là “volume license” hay bản
“corporate”), tuy nhiên lại là bắt buộc với các tất cả các bản khác của Windows XP. Bạn có thể
Activate qua Internet hoặc gọi điện cho đại lý của Microsoft.
Lưu ý:

- Mỗi phiên bản Windows XP chỉ được phép cài lên một máy (trừ bản “volume licence”). Sai khi cài
đặt rồi, nếu phần cứng của máy bị thay đổi quá nhiều, hệ điều hành sẽ đòi Activate lại.
- Dù cài Windows XP ở ổ đĩa nào. Thông tin về khởi động của hệ điều hành đều nằm trên ổ đĩa C:\.
Nếu ổ này bị hỏng hoặc bị format, Windows XP sẽ không khởi động được.
Clean Install
Đây là kiểu cài đặt cho một máy tính mới hoặc khi nội dung của ổ đĩa cần được “đổi mới hoàn
toàn”. Clean Install sẽ cho phép hệ điều hành chạy nhanh và ổn định hơn so với cài đặt kiểu
Upgrade. Ngoài ra, cấu hình của hệ thống cũng chuẩn hơn, tiện cho việc sửa chữa sự cố (nếu có)
sau này.
Để cài đặt mới theo cách dưới đây, bạn cần có phiên bản Full của hệ điều hành.
Cách làm hoàn toàn tương tự như kiểu dual-boot, chỉ khác ở một số điểm sau:
- Khởi động máy (boot) bằng đĩa CD-ROM cài đặt của hệ điều hành: nhấn một phím bất kỳ khi có
thông báo “Press any key to boot from CD ”. (Đôi khi cần phải vào BIOS Setup để thay đổi thứ tự
boot và chọn boot từ CD-ROM trước khi boot từ ổ cứng).
- Chương trình Setup của Windows XP sẽ tự chạy và yêu cầu nhấn phím F8 để chấp nhận EUA (End
User Agreement - Thoả thuận của người dùng).
- Phần còn lại hoàn toàn tương tự như mục 4 và 5 của kiểu Dual Boot, chỉ khác là Setup sẽ yêu cầu
gõ vào Production Key sau lần khởi động thứ hai.

×