Người sáng lập :Nguyễn Văn Thật _ hoc sinh lớp 9a3
Thứ 6 ngày 30/4/2010
Trường : THCS Hoài Hải
Lớp : 9a3
Thành viên nhóm: ……………………………….
……………………….
ĐỊA LÝ ĐỊA PHƯƠNG
ĐỊA LÝ TỈNH BÌNH ĐỊNH
I/VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, PHẠM VI LÃNH THỔ VÀ SỰ PHÂN CHIA HÀNH
CHÍNH
1.Vị trí và lãnh thổ
Bình Định là một tỉnh có diện tích lớn gồm có 6.076 km vuông ,thuộc khu vực Duyên
Hải Miền Trung. Nên bờ biển Bình Định dài hơn 100 km với nhiều đảo lớn nhỏ ngoài
khơi .Phía bắc giáp với Quảng Ngãi cụ thể là huyện Đức Phổ bỏi đèo Bình Đê , phía tây
giáp với Gia Lai có đèo An Khê .Và phía nam giáp với Phú Yên bởi ranh giới đèo Cù
Mông ,còn lại là phía đông tiếp giáp với biển đông .Với vị trí địa lý như thế thì Bình Định
giống như một bức Bình phong và có ý nghĩa vô cùng quan trọng ,to lớn đối với nền kinh
tế của vùng cũng như cả nước .Ngoài ra còn tạo điều kiện thuận lợi giao lưu kinh tế - xã
hội giữa các vùng trong khu vực
2.Sự phân chia hành chính
• Bình Định xưa là đất thuộc Việt Thường Thị và nền văn hóa Sa Huỳnh, sau đó
người Chăm đã tới chiếm lĩnh vùng đất này. Đến đời nhà Tần xứ này là huyện
Lâm Ấp thuộc Tượng Quận, đời nhà Hán là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật
Nam, năm Vĩnh Hoà 2 (137) người trong quận làm chức Công Tào tên là Khu
Liên đã giết viên huyện lệnh chiếm đất và tự phong là Lâm Ấp vương.
• Đời nhà Tùy (605) dẹp Lâm Ấp đặt tên là Xung Châu, sau đó lại lấy tên cũ là
Lâm Ấp.
• Đời nhà Đường, năm 627 đổi tên là Lâm Châu.
• Năm 803, nhà Đường bỏ đất này và nước Chiêm Thành của người Chăm ra đời,
đất này được đổi là Đồ Bàn, Thị Nại.
• Đời nhà Lê năm Hồng Đức 2 (1471) vua Lê Thánh Tông đánh phá Chiêm Thành
tới núi Thạch Bi chiếm đất này và chia thành 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy
Viễn của phủ Hoài Nhơn thuộc thừa tuyên Quảng Nam.
• Năm 1602 chúa Nguyễn Hoàng cho đổi phủ Hoài Nhơn thành Phủ Quy Nhơn
thuộc dinh Quảng Nam.
• Năm 1651, chúa Nguyễn Phúc Tần, đã đổi tên phủ Quy Nhơn thành phủ Quy
Ninh.
• Năm 1742, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lấy lại tên cũ là Quy Nhơn.
• Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát đặt các đạo làm dinh, nhưng cấp phủ vẫn
giữ nguyên. Phủ Quy Nhơn vẫn thuộc về dinh Quảng Nam, đặt các chức tuần phủ
và khám lý để cai trị. Phủ lỵ dời ra phía Bắc thành Đồ Bàn, đóng tại thôn Châu
Thành (nay là xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn).
• Năm 1725, ở phủ Quy Nhơn đặt các chức quan trông coi: Chánh hộ, Khám lý, Đề
đốc, Đề lãnh, Ký lục, Cai phủ, Thư ký, mỗi chức đặt một người; mỗi huyện đặt
cai tri, thư ký, mỗi chức một người và 2 viên lục lại; mỗi tổng có cai tổng.
• Từ 1773 đến 1797, nhà Tây Sơn chiếm cứ đất này, sau khi lấy lại đất này Nguyễn
Ánh đổi tên đất này là dinh Bình Định, sai Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn thủ
và đặt quan cai trị gọi là Lưu Thủ, Cai Bộ, Ký Lục.
• Năm 1808 đổi dinh Bình Định thành Trấn Bình Định.
• Năm 1814, vua Gia Long cho xây dựng lại thành Bình Định mới, ngày nay ở thị
trấn Bình Định, nằm về phía đông nam và cách thành cũ khoảng 5km ở phía gần
sông Côn. Sau khi xây xong cho chuyển toàn bộ nhà cửa về thành mới này
• Năm 1825 đặt tri phủ Quy Nhơn, năm 1831 lại đổi thành phủ Hoài Nhơn.
• Năm 1832 tách huyện Tuy viễn thành hai huyện Tuy Viễn và Tuy Phước, tách
huyện Phù Ly thành hai huyện Phù Mỹ và Phù Cát đồng thời Bình Định và Phú
Yên thành liên tỉnh Bình Phú, sau đó bỏ liên tỉnh này.
• Năm 1888 đặt huyện Bình Khê. Vào năm 1885 Bình Định là một tỉnh lớn ở Trung
Kỳ, nhiều vùng đất của Gia Lai-Kon Tum còn thuộc về Bình Định.
• Năm 1890, thực dân Pháp sát nhập thêm Phú Yên vào tỉnh Bình Định thành tỉnh
Bình Phú, tỉnh lỵ là Quy Nhơn. Nhưng đến năm 1899, Phú Yên tách ra khỏi Bình
Phú.
• Ngày 4 tháng 7 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh
tự trị Pleikou Derr, tỉnh lỵ đặt tại làng Pleikan Derr của dân tộc Gia Lai. Địa bàn
tỉnh Pleikou Derr bao gồm các vùng cư trú của đồng bào thiểu số Xơ đăng, Bana,
Gialai tách từ tỉnh Bình Định ra.
• Ngày 25 tháng 4 năm 1907 xoá bỏ tỉnh Pleikou Derr. Toàn bộ đất đai của tỉnh này
chia làm hai phần: một là Đại lý Kontum cho sát nhập trở lại tỉnh Bình Định và
đặt dưới sự cai trị của Công sứ Bình Định; một gọi là Đại lý Cheo Reo, cho sát
nhập vào tỉnh Phú Yên và đặt dưới sự cai trị của Công sứ Phú Yên.
• Năm 1913, thực dân Pháp lại sát nhập Phú Yên vào Bình Định thành tỉnh Bình
Phú và thành lập tỉnh Kontum làm tỉnh riêng; địa bàn tỉnh Kontum bao gồm Đại
lý Kontum tách từ tỉnh Bình Định, Đại lý Cheo Reo tách từ tỉnh Phú Yên và Đại
lý Đắc Lắc. Ngày 28 tháng 3 năm 1917 cắt tổng Tân Phong và tổng An Khê thuộc
cao nguyên An Khê, tỉnh Bình Định, sát nhập vào tỉnh Kontum.
• Năm 1921, thực dân Pháp cắt tỉnh Phú Yên ra khỏi tỉnh Bình Định và kéo dài cho
đến năm 1945. Thời Việt Nam Cộng hòa đổi các huyện thành quận, tỉnh Bình
Định có 11 quận, 1 thị xã, trong đó có 4 quận miền núi. Tháng 2 năm 1976 Chính
phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ra nghị định về việc giải thể khu,
hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam theo đó hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định
hợp nhất thành tỉnh Nghĩa Bình.
Lấy lại danh hiệu huyện không phục hồi phủ .Trực tiếp dưới cấp tỉnh là huyện .Dưới cấp
huyện là xã và thị trấn (đã độ thị hóa ) .Từ năm 1975 đến cuối năm 1989 , Bình Đinh và
Quảng Ngãi nhập chung thành tỉnh Nghĩa Bình .Tình hình hành chính hiện nay như sau:
Tổng số xã ,phường , thị trấn :155 trong đó :
Xã : 128
Phường : 16
Thị trấn : 11
Mã số Tên đơn vị hành chính
3701 Thành phố Quy Nhơn
370101 Phường Trần Quang Diệu
370102 Phường Bùi Thị Xuân
370103 Phường Đống Đa
370104 Phường Quang Trung
370105 Phường Ngô Mây
370106 Phường Trần Hưng Đạo
370107 Phường Lê Hồng Phong
370108 Phường Trần Phú
370109 Phường Lê Lợi
370110 Phường Hải Cảng
370111 Phường Nhơn Bình
370112 Phường Nhơn Phú
370113 Phường Nguyễn Văn Cừ
370114 Phường Ghềnh Ráng
370115 Phường Lý Thường Kiệt
370116 Phường Thị Nại
370117 Xã Nhơn Châu
370118 Xã Nhơn Hội
370119 Xã Nhơn Hải
370120 Xã Nhơn Lý
*
3702 Huyện An Lão
370201 Xã An Trung
370202 Xã An Toàn
370203 Xã An Vinh
370204 Xã An Dũng
370205 Xã An Hưng
370206 Xã An Quang
370207 Xã An Hoà
370208 Xã An Tân
370209 Xã An Nghĩa
*
3703 Huyện Hoài Ân
370301 Thị trấn Tăng Bạt Hổ
370302 Xã Ân Đức
370303 Xã Ân Hảo
370305 Xã Ân Tín
370306 Xã Ân Thạnh
370307 Xã Ân Phong
370308 Xã Bok Tới
370309 Xã Dak Mang
370310 Xã Ân Nghĩa
370311 Xã Ân Hữu
370312 Xã Ân Tường Đông
370313 Xã Ân Tường Tây
370314 Xã Ân Mỹ
*
3704 Huyện Hoài Nhơn
370401 Thị trấn Tam Quan
370402 Thị trấn Bồng Sơn
370403 Xã Hoài Hải
370404 Xã Hoài Sơn
370405 Xã Hoài Châu
II/ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
1. ĐỊA HÌNH
Địa hình của tỉnh tương đối phức tạp, thấp dần từ tây sang đông. Phía tây của tỉnh là
vùng núi rìa phía đông của dãy Trường Sơn Nam, kế tiếp là vùng trung du và tiếp theo là
vùng ven biển. Các dạng địa hình phổ biến là các dãy núi cao, đồi thấp xen lẫn thung
lũng hẹp độ cao trên dưới 100 mét, hướng vuông góc với dãy Trường Sơn, các đồng bằng
lòng chảo, các đồng bằng duyên hải bị chia nhỏ do các nhánh núi đâm ra biển. Ngoài
cùng là cồn vát ven biển có độ dốc không đối xứng giữa 2 hướng sườn đông và tây. Các
dạng địa hình chủ yếu của tỉnh là:
• Vùng núi: Nằm về phía tây bắc và phía tây của tỉnh. Đại bộ phận sườn dốc hơn
20°. Có diện tích khoảng 249.866 ha, phân bố ở các huyện An Lão (63.367 ha),
Vĩnh Thạnh (78.249 ha), Vân Canh (75.932 ha), Tây Sơn và Hoài Ân (31.000 ha).
Địa hình khu vực này phân cắt mạnh, sông suối có độ dốc lớn, là nơi phát nguồn
của các sông trong tỉnh. Chiếm 70% diện tích toàn tỉnh thường có độ cao trung
bình 500-1.000 m, trong đó có 11 đỉnh cao trên 1.000 m, đỉnh cao nhất là 1.202 m
ở xã An Toàn (huyện An Lão). Còn lại có 13 đỉnh cao 700-1000m. Các dãy núi
chạy theo hướng Bắc - Nam, có sườn dốc đứng. Nhiều khu vực núi ăn ra sát biển
tạo thành các mỏm núi đá dọc theo bờ, vách núi dốc đứng và dưới chân là các dải
cát hẹp. Đặc tính này đã làm cho địa hình ven biển trở thành một hệ thống các dãy
núi thấp xen lẫn với các cồn cát và đầm phá.
• Vùng đồi: tiếp giáp giữa miền núi phía tây và đồng bằng phía đông, có diện tích
khoảng 159.276 ha (chiếm khoảng 10% diện tích), có độ cao dưới 100 m, độ dốc
tương đối lớn từ 10° đến 15°. Phân bố ở các huyện Hoài Nhơn (15.089 ha), An
Lão (5.058 ha) và Vân Canh (7.924 ha).
• Vùng đồng bằng: Tỉnh Bình Định không có dạng đồng bằng châu thổ mà phần
lớn là các đồng bằng nhỏ được tạo thành do các yếu tố địa hình và khí hậu, các
đồng bằng này thường nằm trên lưu vực của các con sông hoặc ven biển và được
ngăn cách với biển bởi các đầm phá, các đồi cát hay các dãy núi. Độ cao trung
bình của dạng địa hình đồng bằng lòng chảo này khoảng 25-50 m và chiếm diện
tích khoảng 1.000 km². Đồng bằng lớn nhất của tỉnh là đồng bằng thuộc hạ lưu
sông Kôn, còn lại là các đồng bằng nhỏ thường phân bố dọc theo các nhánh sông
hay dọc theo các chân núi và ven biển.
• Vùng ven biển: Bao gồm các cồn cát, đụn cát tạo thành một dãy hẹp chạy dọc ven
biển với chiều rộng trung bình khoảng 2 km, hình dạng và quy mô biến đổi theo
thời gian. Trong tỉnh có các dãi cát lớn là: dãi cát từ Hà Ra đến Tân Phụng, dãi cát
từ Tân Phụng đến vĩnh Lợi, dãi cát từ Đề Gi đến Tân Thắng, dãi cát từ Trung
Lương đến Lý Hưng. Ven biển còn có nhiều đầm như đầm Trà Ổ, đầm Nước
Ngọt, đầm Mỹ Khánh, đầm Thị Nại; các vịnh như vịnh Làng Mai, vịnh Quy
Nhơn, vịnh Vũng Mới ; các cửa biển như Cửa Tam Quan, cửa An Dũ, cửa Hà
Ra, cửa Đề Gi và cửa Quy Nhơn. Các cửa trên là cửa trao đổi nước giữa sông và
biển. Hiện tại ngoại trừ cửa Quy Nhơn và cửa Tam Quan khá ổn định, còn các cửa
An Dũ, Hà Ra, Đề Gi luôn có sự bồi lấp và biến động.
Hải Đảo :
Ven bờ biển tỉnh Bình Định gồm có 32 đảo lớn nhỏ được chia thành 10 cụm đảo hoặc
đảo một mình.
• Tại khu vực biển thuộc thành phố Quy Nhơn gồm cụm đảo Cù Lao Xanh là cụm
đảo lớn gồm 3 đảo nhỏ; cụm Đảo Hòn Đất gồm các đảo nhỏ như Hòn Ngang,
Hòn Đất, Hòn Rớ; cụm Đảo Hòn Khô còn gọi là cù lao Hòn Khô gồm 2 đảo nhỏ;
cụm Đảo Nghiêm Kinh Chiểu gồm 10 đảo nhỏ (lớn nhất là Hòn Sẹo); cụm Đảo
Hòn Cân gồm 5 đảo nhỏ; Đảo đơn Hòn Ông Cơ.
• Tại khu vực biển thuộc huyện Phù Mỹ gồm cụm Đảo Hòn Trâu hay Hòn Trâu
Nằm gồm 4 đảo nhỏ; Đảo Hòn Khô còn gọi là Hòn Rùa. Ven biển xã Mỹ Thọ có
3 đảo nhỏ gồm: Đảo Hòn Đụn còn gọi là Hòn Nước hay Đảo Đồn, Đảo Hòn
Tranh còn gọi là Đảo Quy, Đảo Hòn Nhàn
Trong các đảo nói trên thì chỉ đảo Cù Lao Xanh là có dân cư sinh sống, các đảo còn lại là
những đảo nhỏ một số đảo còn không có thực vật sinh sống chỉ toàn đá và cát. Dọc bờ
biển của tỉnh, ngoài các đèn hiệu hướng dẫn tàu thuyền ra vào cảng Quy Nhơn, thì Bình
Định còn có 2 ngọn hải đăng: một ngọn được xây dựng trên mạng bắc của núi Gò Dưa
thuộc thôn Tân Phụng xã Mỹ Thọ huyện Phù Mỹ, ngọn này có tên gọi là Hải Đăng Vũng
Mới hay Hải Đăng Hòn Nước; ngọn thứ hai được xây dựng trên đảo Cù Lao Xanh thuộc
xã Nhơn Châu thành phố Quy Nhơn.
2 . KHÍ HẬU
Khí hậu Bình Định có tính chất nhiệt đới ẩm, gió mùa. Do sự phức tạp của địa hình nên
gió mùa khi vào đất liền đã thay đổi hướng và cường độ khá nhiều.
• Nhiệt độ không khí trung bình năm: ở khu vực miền núi biến đổi 20,1-26,1°C, cao
nhất là 31,7°C và thấp nhất là 16,5°C. Tại vùng duyên hải, nhiệt độ không khí
trung bình năm là 27,0°C, cao nhất 39,9°C và thấp nhất 15,8°C.
• Độ ẩm tuyệt đối trung bình tháng trong năm: tại khu vực miền núi là 22,5-27,9%
và độ ẩm tương đối 79-92%; tại vùng duyên hải độ ẩm tuyệt đối trung bình là
27,9% và độ ẩm tương đối trung bình là 79%.
• Chế độ mưa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12. Riêng đối với khu vực
miền núi có thêm một mùa mưa phụ tháng 5-8 do ảnh hưởng của mùa mưa Tây
Nguyên. Mùa khô kéo dài tháng 1-8. Đối với các huyện miền núi tổng lượng mưa
trung bình năm 2.000-2.400 mm. Đối với vùng duyên hải tổng lượng mưa trung
bình năm là 1.751 mm. Tổng lượng mưa trung bình có xu thế giảm dần từ miền
núi xuống duyên hải và có xu thế giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
• Về bão: Bình Định nằm ở miền Trung Trung bộ Việt Nam, đây là miền thường có
bão đổ bộ vào đất liền. Hàng năm trong đoạn bờ biển từ Quảng Nam - Đà Nẵng
đến Khánh Hòa trung bình có 1,04 cơn bão đổ bộ vào. Tần suất xuất hiện bão lớn
nhất tháng 9-11. Vì Bình Định là một tỉnh thuộc duyên hải Nam Trung Bộ nên
nằm hoàn toàn trong nền khí hậu mang tính chất nhiệt đới gió mùa ẩm . Chính vì
thế , nên hàng năm tỉnh Bình Định nói riêng và khu vực miền trung nói chung
thường bị hạn hán kéo dài : thiên tai gây thiệt hại lớn trong sản xuất và đời sống
đặc biệt trong mùa mưa bão .Nhưng bên cạnh mặt khó khăn nó cũng có những nặt
thuận lợi nhất định . Hàng năm cung cấp một số lượng phù sa cho ngành nông
nghiệp từ các đồng bằng ven biển mặc không lớn như các đồng bằng khác
3. THỦY VĂN
Sông ngoài
Các sông trong tỉnh đều bắt nguồn từ những vùng núi cao của sườn phía đông dãy
Trường Sơn. Các sông ngòi không lớn, độ dốc cao, ngắn, hàm lượng phù sa thấp, tổng trữ
lượng nước 5,2 tỷ m³, tiềm năng thuỷ điện 182,4 triệu KW. Ở thượng lưu có nhiều dãy
núi bám sát bờ sông nên độ dốc rất lớn, lũ lên xuống rất nhanh, thời gian truyền lũ ngắn.
Ở đoạn đồng bằng lòng sông rộng và nông có nhiều luồng lạch, mùa kiệt nguồn nước rất
nghèo nàn; nhưng khi lũ lớn nước tràn ngập mênh mông vùng hạ lưu gây ngập úng dài
ngày vì các cửa sông nhỏ và các công trình che chắn nên thoát lũ kém. Trong tỉnh có bốn
con sông lớn là Côn, Lại Giang, La Tinh và Hà Thanh cùng các sông nhỏ như Châu Trúc
hay Tam Quan. Ngoài các sông đáng kể nói trên còn lại là hệ thống các suối nhỏ chằng
chịt thường chỉ có nước chảy về mùa lũ và mạng lưới các sông suối ở miền núi tạo điều
kiện cho phát triển thuỷ lợi và thuỷ điện. Độ che phủ của rừng đến nay chỉ còn khoảng
trên 40% nên hàng năm các sông này gây lũ lụt, sa bồi, thuỷ phá nghiêm trọng. Ngược
lại, mùa khô nước các sông cạn kiệt, thiếu nước tưới.
Hồ đầm
Toàn tỉnh Bình Định có nhiều hồ nhân tạo được xây dựng để phục vụ mục đích tưới tiêu
trong mùa khô. Trong đó có thể kể tên một số hồ lớn tại các huyện trong tỉnh như: hồ
Hưng Long (An Lão); hồ Vạn Hội, Mỹ Đức và Thạch Khê (Hoài Ân); hồ Mỹ Bình (Hoài
Nhơn); hồ Hội Sơn và Mỹ Thuận (Phù Cát); hồ Diêm Tiêu, Hóc Nhạn và Phú Hà (Phù
Mỹ); hồ Định Bình, Thuận Ninh (Tây Sơn); hồ Núi Một (Vân Canh-An Nhơn); hồ Vĩnh
Sơn, hồ Định Bình (Vĩnh Thạnh). Ngoài ra Bình Định còn có một đầm nước ngọt khá
rộng là đầm Trà Ổ (Phù Mỹ) và hai đầm nước lợ là Đề Gi (Phù Mỹ-Phù Cát)và Thị Nại
(Tuy Phước-Quy Nhơn). Hệ thống hồ đầm này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển
nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản. Đặc biệt đầm Thị Nại là đầm lớn rất thuận lợi
cho việc phát triển cảng biển tầm cở quốc gia và góp phần phát triển khu kinh tế Nhơn
Hội, đầm còn được biết đến với cây cầu vượt biển dài nhất Việt Nam hiện nay
Ngoài ra , tỉnh còn có một số mạch nước ngầm phong phú , nguồn nước dồi dào tạo điều
kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp . Giúp bà con nông dân hạn chế thiếu nước trong
mùa khô
4.Thổ dưỡng
Có 5 loại thổ nhưỡng :
1. Đá mẹ (địa chất
Trong các yếu tố hình thành đất, đá mẹ là một trong những yếu tố hàng
đầu. Đá mẹ khó phân hoá thì tầng đất mỏng, thành phần cơ giới nhẹ, nhiều
đá lẫn, đá lộ đầu và ngược lại. Bình Định chủ yếu được cấu
tạo từ đá macma axit như granit, riolit; ở Tây Sơn có một ít macma bazơ.
Ngoài ra còn có đá biến chất và trầm tích như gơnai, phiến thạch, sa
thạch và mẫu chất phù sa cổ, phù sa mới.
Đặc trưng mối quan hệ giữa đá mẹ và đất:
+ Granit:
Đây là đá macma xâm nhập, thành phần khoáng hóa vật phong phú với
cấu trúc dạng hạt, màu sắc phụ thuộc vào màu khoáng vật tạo nên chủ yếu
là fenspat. Độ cứng của các khoáng hoá vật chính tạo thành granit rất khác
nhau nên đá có tầng mỏng, thành phần cơ giới thô, do đó bị rửa trôi mạnh
nên đất xấu, quá trình feralit xảy ra mạnh.
+ Riolit:
Đá macma axit dạng phun trào tương ứng với đá granit về thành phần
khoáng vật tinh thể nhỏ. Đất đặc trưng cũng giống granit có tầng mỏng
trong điều kiện rửa trôi mạnh, nghèo dinh dưỡng, độ chua cao. Đất loại
này tập trung nhiều ở các huyện phía Nam tỉnh Bình Định (từ đường 19
xuống đèo Cù Mông).
+ Sa Thạch:
Đây là đá trầm tích chủ yếu là cát thạch anh, khi phong hoá cho nhiều
cát, thô; thành phần cơ giới nhẹ, tầng đất mỏng đến trung bình, đất thường
có màu vàng nhạt.
+ Bazan:
Macma bazơ phun trào kiến trúc vi tinh khoáng vật chủ yếu là Ôlivin.
Kiểu phong hoá nhiệt đới đối với các loại đá này là bóc vảy củ hành. Đất
có màu vàng, đỏ đặc trưng; tầng đất dày, thành phần cơ giới nặng, tỷ lệ đá
lẫn ít hoặc không có. Đất đỏ bazan ở Bình Định tập trung ở Vĩnh Thạnh và
An Lão, tuổi địa chất trẻ, địa hình bằng phẳng.
+ Biến thạch gnai:
Đây là loại đá biến chất do thời gian, thường phổ biến trên khu nền cổ,
cấu trúc đá có dạng dải, phân bố chủ yếu ở vùng trung du của tỉnh. Đất
của loại đá này có thành phần cơ giới nhẹ, tầng mỏng, nhiều đá lẫn.
+ Đá phiên thạch mica:
Đây cũng là đá phiến chất nghèo fenspat, thành phần vật chủ yếu là
mica, thạch anh được phân bố ở Phù Cát, Hoài Nhơn. Loại này cho đất
dày, độ phì khá, nhiều sét, thành phần cơ giới nặng.
+ Mẫu chất:
- Phù sa cổ:
Mẫu chất được hình thành từ kỷ Đệ tứ (Q), từ sản phẩm bồi lắng do
nước vận chuyển sau được nâng lên trong pha uốn nếp; dạng địa hình
thoải, tính phân lớp trong phẫu diện đặc trưng theo chiều tăng kích thước
hạt khi xuống lớp dưới, đất phong hoá có màu từ vàng nhạt đến vàng;
thành phần cơ giới nhẹ. Loại này được phân bố ở Phù Mỹ, Phù Cát, Vân
Canh.
- Dốc tụ:
Sản phẩm Deluvi được tích tụ ở thung lũng vùng trung du, vật liệu gắn
viên cấp hạt không thống nhất. Đất có tầng dày nhiều đá lẫn, chua, giàu
mùn, thành phần cơ giới nhẹ được phân bố hầu khắp ở vùng trũng trước
núi.
- Phù sa núi:
Vật liệu bồi đắp do sông suối hiện đại ở vùng núi, tuổi địa chất trẻ;
nhiều vùng vẫn tiếp tục được bồi đắp hàng năm. Loại này phân cấp hạt rõ,
kích thước giảm dẫn từ nguồn đến cửa sông, phân bố ở hầu hết các huyện.
2. Địa hình
3. Thảm thực vật
4. Mạng lưới sông ngòi
Đồng bằng ven biển hình thành nhờ tác động của sông, biển, ở Bình
Định sông suối không lớn, độ dốc cao nên hàm lượng phù sa thấp. Mặt
khác sông ngắn nên dạng đồng bằng thung lũng, sông là chủ yếu. Bình
Định có sông lớn là sông Lại Giang, sông Kôn, lưu lượng nước có biên độ
dao động lớn giữa mùa lũ và mùa kiệt. Đây là nguồn nước tưới chủ yếu
cho các đồng bằng ở Bình Định.
5. Con người
Con người là lực lượng mới của tự nhiên có ảnh hưởng không nhỏ đến
sự hình thành và phát triển của đất, nhất là chế độ canh tác, trình độ canh
tác còn lạc hậu (đặc biệt là các dân tộc ít người ở miền núi). Bình Định
còn bị chiến tranh tàn phá để lại hậu quả lâu dài cho sự suy thoái chất
lượng đất, nhất là những vùng bị tác động mạnh của bom đạn và chất độc
hoá học làm trụi mất lớp thực vật phủ.
II. CÁC LOẠI ĐẤT
Kết quả điều tra đất ở tỉnh Bình Định cho phép chia đất của tỉnh ra 9
nhóm, 22 đơn vị đất và 74 đơn vị đất phụ theo điều kiện hình thành, đặc
điểm phát sinh, hiện trạng và hướng sử dụng.
1. Nhóm đất cát (c): arenosols (ar)
2. Nhóm đất mặn (m) - Salic Fluvisols (fls)
3. Nhóm đất phèn (S) Thionic Fluvisols
4. (flt. Nhóm đất phù sa (P): Fluvisols (FL)
5. Đất gờ lây (GL) Gleysols (GL)
6. Đất than bùn (T) Histosols (HS): Diện tích 120 ha
7. Nhóm đất xám (X): Acrisols (AC)
.
8. Nhóm đất đỏ (f) Farralsols (FR)
9. Đất tầng mỏng (E) Leptosols (LP)
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ ĐẤT:
1. Dưới tác động tổng hợp của các điều kiện tự nhiên và sản xuất ở Bình
Định đã hình thành 9 nhóm, 22 đơn vị và 74 đơn vị đất phụ với đặc điểm
phát sinh và sử dụng đa dạng.
2. Đất đồi núi dốc chiếm 62,3% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, còn lại là
đất ở địa hình bằng, thoải với 32,7%. Diện tích đất có tầng mỏng hơn
50cm chiếm 48%.
3. Các nhóm đất phổ biến và có diện tích lớn hơn cả là đất xám:
425.835 ha (70,4%), đất phù sa 45.634 ha (7,5%), đất tầng mỏng: 22.229
ha (3,6%); đất đỏ 21.313 ha (3,5%), đất gờ lây 15.968 ha (2,6%), đất cát
13.570 ha (2,2%) so với đất tự nhiên toàn tỉnh. Các loại đất thuận lợi cho
sản xuất là đất phù sa, đất gờ lây, đất mặn trung bình và ít, đất đỏ, đất xám
Feralit; tầng dày hơn 50cm và ở độ dốc < 250, có diện tích 178.015 ha,
chiếm 29,4 % đất tự nhiên toàn tỉnh.
4. Đa số đất tỉnh Bình Định có các đặc trưng chung:
- Thoát nước tốt, và có thành phần cơ giới nhẹ.
- Phản ứng của đất chua (pH
KCl
= 4,0 - 4,5).
- Nghèo các chất dinh dưỡng dễ tiêu, cation kiềm trao đổi và độ no bazơ
thấp.
- Dung tích hấp thu thấp.
- Phần lớn đất có sự phân dị rõ về phẫu diện đất theo thành phần cơ giới
dẫn đến hiện tượng phần trên phẫu diện đất và vỏ phong hóa bị nghèo sét
và các sesquioxyt. Hiện tượng này thấy rõ ở đất xám và đất đỏ.
5. Quá trình rửa trôi, thoái hóa đất diễn ra rất sâu sắc ở hầu hết các loại
đất trong tỉnh. Đặc biệt là ở vùng dốc nhiều thuộc các huyện Hoài Nhơn,
An Lão, Vĩnh Thạnh và ở vùng trung du triền dốc kéo dài, thực vật thưa
thớt (Tây Sơn, Phù Cát, Hoài Ân, Vân Canh). Nó phản ánh rõ ở xu thế
giảm dần của độ chua, tăng dần về hàm lượng các cation kiềm trao đổi và
cấp hạt sét theo chiều sâu phẫu diện. Tuy nhiên, sự rửa trôi theo chiều
thẳng đứng các phẫu diện đất lầy và đất gờ lây nông yếu hơn trên các loại
đất khác.
6. Nhóm đất cát
Đặc điểm chung của nhóm đất này là nghèo dinh dưỡng, độ phì thấp,
thành phần cơ giới nhẹ, đa số thoát nước tốt, độ phì đất cát phân hóa rõ
theo các đơn vị đất phụ và có thể xếp theo thứ tự từ tốt đến xấu; đất cát gờ
lây, đất cát biển, cồn cát trắng vàng.
7. Nhóm đất mặn chiếm 1,05% đất toàn tỉnh. Nhóm đất này có độ phì
tiềm tàng và thực tế trung bình. Hạn chế chính cần quan tâm cải tạo ở đây
là mặn, đặc biệt đối với đất mặn sú vẹt đước và mặn nhiều, tuy
chúng có hàm lượng mùn và đạm tổng số cao hơn các loại đất mặn, nhưng
cần quan tâm cải tạo cả mặn lẫn phèn.
8. Nhóm đất phèn chiếm 0,14% đất toàn tỉnh. Đây là nhóm đất có độ
phì nhiêu tiềm tàng trung bình đến khá, đồng thời cũng là “đất có vấn đề”
cần phải cải tạo tốt mới đưa vào sử dụng có hiệu quả.
9. Nhóm đất phù sa chiếm 7,5% diện tích toàn tỉnh. Đây là nhóm đất
quan trọng nhất trong việc sản xuất lương thực, thực phẩm và các cây
hàng năm khác của tỉnh Bình Định. Nhóm đất này có độ phì thực tế khá so
với các loại đất khác trong tỉnh. Tuy nhiên, nếu so sánh với đất phù sa của
hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Cửu Long thì độ phì ở đây thấp hơn
nhiều. Đặc điểm đất phù sa phụ thuộc vào hệ thống sông suối chảy qua
tỉnh, vị trí bồi đắp địa hình và sử dụng đất.
10. Nhóm đất gờ lây chiếm 2,6% toàn tỉnh. Nhóm đất này có nhược
điểm là chua, bí, khó thoát nước, nhưng độ phì thuộc loại trung bình và
khá. Quá trình rửa trôi thoái hóa ở đây cũng yếu hơn so với các loại đất
khác.
11. Nhóm đất than bùn có diện tích không đáng kể và ít có giá trị trong
sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên có thể khai thác cho các mục tiêu khác
nhau: làm phân bón, trồng lúa, rau, nuôi trồng thủy sản
12. Nhóm đất xám chiếm 70,4% diện tích . Đất xám phổ biến rộng khắp
vùng đồi, núi tỉnh Bình Định với đặc điểm rất đa dạng. Tính chất chung
nhất của nhóm đất này là có phản ứng chua, độ no, dung tích hấp thụ và
hàm lượng CaO, MgO thấp, nghèo cation kiềm trao đổi và các chất dễ
tiêu, axit mùn chủ yếu là funvic, khoáng sét chủ yếu là kaolinit. Trong
nhóm đất này đất xám feralit và đất xám mùn nhìn chung có độ phì khá
hơn.
13. Nhóm đất đỏ chiếm 3,5% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Đây là nhóm
đất tốt nhất ở trung du và vùng núi Bình Định. Đa số đất đỏ có thành phần
cơ giới trung bình đến nặng, cấu trúc tốt, tầng đất trung bình đến dày, độ
phì khá. Ngoài ra nhóm đất này cũng có tính chất chung như nhóm đất
xám nói trên.
14. Nhóm đất tầng mỏng chiếm 8,4 % diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Đây
là nhóm đất nằm ở địa hình chia cắt, dốc nhiều, bị rửa trôi xói mòn mạnh,
tầng đất mỏng.
5. TÀI NGUYÊN SINH VẬT
Thực vật đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành đất trồng. Giới sinh
vật có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến tính chất của thổ nhưỡng, đồng
thời là yếu tố quan trọng trong việc bảo vệ đất, nâng cao độ phì tự nhiên
của đất.
Thảm thực vật ở Bình Định phong phú, không bị ảnh hưởng của gió
mùa Đông Bắc nên cây nhiệt đới phát triển quanh năm. Địa hình tự nhiên
với sự tác động có mục đích của con người tạo ra cho Bình Định
có một thảm thực vật như sau:
- Rừng rậm tự nhiên: Tập trung phía Tây của tỉnh - trên địa bàn huyện
Vĩnh Thạnh, An Lão, Hoài Ân, Tây Sơn, Vân Canh. Địa bàn núi cao hiểm
trở, phần lớn rừng đã bị chặt phá. Rừng phổ biến ở đây là cây lá
rộng, thân gỗ. Tại đây có nhiều gỗ quý và đặc sản, dưới tán rừng là quần
thể sinh vật đông đúc đã để lại cho đất khối lượng lớn xác hữu cơ tầng dày
10 cm. Từ độ cao trên 800 m do nhiệt độ giảm mạnh, khả năng phân giải
chất hữu cơ chậm, lượng mưa lớn, độ ẩm cao đã hình thành loại đất vàng
đỏ trên núi. Loại đất này có độ phì lớn, cấu tượng tốt nhưng do độ dốc lớn
nên không thể khai thác cho nông nghiệp. Do vậy cần có biện pháp để bảo
vệ rừng đầu nguồn.
- Rừng cây bụi:
Loại cây rừng này tập trung vùng dốc, gò thấp. Trước đây là rừng
nhưng do địa hình thấp, rừng bị khai thác cạn kiệt, hình thành rừng thứ
sinh cây bụi, do bị khai thác quá khả năng tái sinh nên dẫn đến sự suy
thoái mạnh của rừng: đất bị rửa trôi mạnh, độ chua cao, tầng đất mỏng,
quá trình laterit diễn ra mạnh, thậm chí đá ong lộ ra trên mặt đất. Nhìn
chung loại đất của thảm thực vật này có chất lượng kém đối với sự phát
triển nông nghiệp.
- Cây trồng:
Đây là thảm thực vật hình thành do tác động nhân sinh. Trải qua quá
trình canh tác lâu dài dẫn đến hình thành các loại đất có đặc trưng riêng,
nhất là đất lúa nước, loại đất gờlây nhiệt đới điển hình. Tại những chân
ruộng cao, việc tưới nước định kỳ cho cây màu đã làm giảm sút chất lượng
nước đáng kể, nhất là cây ngắn ngày trồng trên vùng gò đồi. Loại đất này
thích hợp cho việc trồng cây công nghiệp dài ngày.
- Thảm thực vật chịu mặn:
Trên 134 km bờ biển của Bình Định đã hình thành cho tỉnh dải đất phát
triển cây chịu mặn vùng ven biển. Nhưng do gần các trung tâm quần cư,
thảm thực vật chịu mặn bị tàn phá khá mạnh, địa hình dốc lớn,
thềm lục địa sâu nên rừng chịu mặn có diện tích hẹp. Cần chú ý bảo vệ
loại thảm thực vật này. Đó chính là bảo vệ đất tốt bên trong
6 . Khoáng sản
ở Bình Định có hai loại khoáng sản chính là ;
+ oxit titan chủ yếu ở TP Quy Nhơn
+ suối nước khoáng ở Phù Mỹ
Thuận lợi để phát triển các ngành công nghiệp chế biến khoáng sản
Nếu ai lấy thông tin này, mà được điểm cao thì hãy thankyou ! một tiếng
Qua email:
THẬT rất lấy lòng cảm kích
GOOD LUCK TO YOU!