Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.45 KB, 5 trang )
Bả đậu ta - Bả đậu nam - Bả đậu tây
Dầu lai (Bả đậu nam) - Jatropha curcas
Trong dân gian thường có sự lầm lẫn về tên gọi và cách dùng của 3 cây
Bả đậu thường dùng làm bả giết chuột, chó và cũng có khi dùng làm thuốc
cho người, có thể gây ngộ độc, nguy hiểm đến tính mạng
Cây Bả đậu (Croton tiglium L.) còn gọi là cây Ba đậu, Bả đậu ta, cây Hoắt,
Mần để, Mác vát (Thổ), Purging Croton hay True Croton (Anh), thuộc họ Thầu
dầu (đại kích - Euphorbiaceae).
Tiểu mộc cao 3 - 6 m, không lông. Phiến to vào 6 - 8 x 4 - 5 cm, đầu tà có
mũi ngắn, đáy có 3 gân chính và 2 tuyến gần nơi ngắn của cuống, bìa có răng cưa
thấp, mỏng.
Chùm hoa ở chót nhánh, đứng cao đến 20 cm; hoa đực có 5 cánh hoa 2
mm; 15 - 17 nhị (đực); hoa cái không cánh hay 1 - 2 cánh hoa, vòi nhụy 6. Nang
cao 2 cm; hột nâu xám, bầu dục, cao khoảng 1 cm. Trồng hay mọc hoang đến cao
độ 600 m: Hà Nội, Bắc Thái, Hà Sơn Bình, miền Trung. Hoa tháng 4 - 6, trái
tháng 8 - 9, chứa 3 hột.
Lá, hột và vỏ cây có độc (thời xưa dùng trị sung huyết phổi, nay ít nơi
dùng), trị viêm, bướu, đau răng, táo bón nặng; mủ dính da gây phù và tạo thẹo
vĩnh viễn. Hột trị nọc rắn, táo bón nặng, nhưng cũng có thể gây ung thư.
Dầu hột (dầu bả đậu) chứa phorbol 12-O-decanoat-13-O-acetat, acid tiglic,
xổ mạnh và nhanh (1 giờ sau khi uống), độc (chỉ sử dụng khi bị bón lâu ngày, khó
trị với liều 1/2 - 1 giọt dầu bả đậu trong một ngày). Chữa phù thũng - hạt giã ép bỏ
dầu: 1 đến 5 centigram (0,01 - 0,05 g) sắc uống.
Người Trung Quốc, gọi là “Bã dòu”, dùng với liều lượng rất nhỏ, trị kinh
phong, sung huyết phổi. Hột chứa phorbol este chống HIV.
Nhớ là tất cả các bộ phận của cây Bả đậu đều rất độc.
Cây Bả đậu tây, còn có tên Mã đậu, Sandbox Tree (Anh), Arbre du Diable
(cây của quỷ - Pháp), tên khoa học Hura crepitans L., cùng họ Euphorbiaceae với
Bả đậu ta. Có nơi còn gọi là cây Vông đồng (nhưng Vông đồng là tên một cây