Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Cát căn không chỉ là thuốc cai rượu... (Kỳ 1) ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.37 KB, 5 trang )

Cát căn không chỉ là thuốc cai rượu
(Kỳ 1)


Cát căn là rễ củ của Sắn dây (Kudzu wine), tên khoa học Pueraria
lobata, tên cũ P. thunbergiana, thuộc họ Đậu Fabaceae. Dây leo mọc hoang
trong rừng núi hoặc được trồng làm thực phẩm, làm thuốc tại nhiều nơi ở
nước ta.
Là dây leo quấn, hoặc mọc bò lan lên cây chói hoặc giàn. Thân dây rất dài
có thể từ 4 đến 12 m, phủ lông tơ. Rễ phát triển thành dạng củ thuôn dài, chứa tinh
bột và xơ. Lá kép có ba lá chét cỡ 15 cm. Lá có lông mịn ở cả hai mặt. Cuống lá
dài và cứng, cũng phủ lông. Hoa mọc thành cụm ở nách lá: chùm hoa mang nhiều
hoa to (2,5 cm) màu xanh tím, hoặc tím sậm, có mùi thơm kiểu hoa nho. Quả đậu
cũng có lông màu vàng, dài. Dây phát triển một năm, đến cuối mùa thu thì thu
hoạch củ. Sắn dây được trồng bằng hột hoặc đoạn thân già (giâm cành) trên luống
đất xốp cao khoảng 5 tấc. (Tránh nhầm với Củ đậu mà nhiều nơi cũng gọi là Sắn
dây).
Rễ củ được luộc chín để ăn như khoai, vừa bổ dưỡng vừa có tác dụng trị
bệnh. Rễ củ cạo bỏ lớp vỏ bên ngoài và cắt lát dày từ 0,6 - 1 cm phơi sấy khô ta có
vị Cát căn. Rễ củ rửa sạch, giã nát, ngâm nước, khuấy đảo và thay nước mỗi ngày,
lọc lấy tinh bột, phơi khô, ta có vị Cát phấn hay bột Sắn dây.
Thành phần hóa học
Cát căn hay rễ củ Sắn dây chứa:
- Flavonoid: daidzein, daidzin, puerarin, puerarin-7-xylosid, genistein,
formonetin, puerarol, kakkonein.
- Tinh bột (10 - 15%) có D-mannitol.
- Acid hữu cơ: succinic acid, arachidic acid.
- Các chất: miroestrol, allantoin, acetylcholin.
Hoa Sắn dây chứa:
- Tinh dầu bay hơi có ethyl acetat, isoamyl alcohol, octyl alcohol, lanalool,
eugenol


- Acid hữu cơ: benzoic acid, propionic acid, isovaleric acid, capronic acid;
p-coumaric acid.

- Irisolidon.
- Flavonoid: genistein, daidzein,
quercetin

Dược tính và cách dùng
Đông y cổ truyền
Cát căn đã được dùng trong đông y cổ truyền từ thế kỷ đầu tiên sau tây lịch.
Cát căn có vị ngọt, hơi chua, tính mát; tác động vào các kinh mạch thuộc tỳ và vị.
Các sách thuốc cổ truyền đã viết khá nhiều về Cát căn:
- Danh y Nhân Quyền (đời nhà Đường) đã ghi nhận tác dụng khai vị, giải
độc được rượu , trị được những chứng thiên hành, thượng khí, úa ngược

Bột Sắn dây
- Sách “Khai Bảo Trùng Định Tân Bảo”của thời nhà Tống đã viết: Bột Cát
căn làm khỏi khát, thông được đại tiểu tiện, giải được độc của rượu , trị được
những chứng buồn phiền nóng nảy.
- Các danh y Hoàng Cung Tú, Giả Cửu Như (đời Thanh) ghi rằng Cát căn
có tính thăng - phát, đi vào kinh Túc dương minh vị giúp sinh “khí” trong bao tử,
làm sinh tân dịch, chỉ khát , đồng thời cũng vào được cả tỳ kinh, nên giúp khai
thông, giải biểu, trừ được sự nóng nhiệt
Cát căn được xem là có những dược tính:
- Thanh nhiệt, lợi tiểu, giải độc, thư giãn cơ; trị sốt nóng, nhức đầu. Trị đau
cứng cổ và bả vai (phối hợp với Ma hoàng, Quế chi và Bạch thược).
- Nuôi dưỡng tân dịch và giải khát: nhất là khát do nhiệt tại vị gây thất thoát
tân dịch: thường dùng chung với Thiên hoa phấn (Trichosanthis kirilowii) và
Mạch môn đông. Cát căn rất công hiệu để trị nhiệt do “phong tà” ngoại nhập:
trong trường hợp này Cát căn được dùng chung với Sài hồ và Hoàng cầm.

- Làm mau lành bệnh sởi: giúp mau lành, nhất là khi các nốt sởi chưa mọc
trổ hết: khi bắt đầu lên sởi nên dùng chung với Thăng ma (Rhizoma cimicifuga).
- Chữa tiêu chảy: tiêu chảy hay kiết do ở nhiệt, kể cả trường hợp tiêu chảy
do “suy tỳ”. Dùng thêm Hoài sơn nếu tân dịch bị tổn hại; dùng thêm Hoàng liên và
Hoàng cầm nếu bị tiêu chảy do “nhiệt thấp”.
- Đông y cổ truyền dùng Cát căn dưới dạng sao đến vàng để làm bớt tính
“hàn”, nhất là khi trị tiêu chảy do tỳ suy. Liều trung bình từ 6 - 12 g dược liệu khô.

×