Lời mở đầu
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đà có lịch sử gần 3000 năm.
Sự phát triển những t tởng triết học của nhân loại là một quá trình không đơn
giản. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, và gắn
với nó là cuộc đấu tranh giữa các phơng pháp nhận thức hiện thực phơng
pháp biện chứng và phơng pháp siêu hình - tuy là cái trục xuyên suốt lịch sử
triết học, làm nên cái logic nội tại khách quan của sự phát triển, song lịch
sử diễn biến của nó lại hết sức phức tạp.
Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính
vì vậy nó đà trở thành thế giới quan và phơng pháp luận khoa học của giai
cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đà kế
thừa những tinh hoa, từ đó đa ra những nguyên lý khoa học giúp con ngời
nhân thức đúng và cải tạo thế giới.
Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong
lịch sử phát triển triết học của nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đà kế thừa
một cách có phê phán những thành tựu t duy nhân loại, sáng tạo nên chủ
nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và
phép siêu hình. Để xây triết học duy vật biện chứng, Mác đà phải cải cả chủ
nghĩa duy vật cũ và cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Đó là một cuộc
cách mạng thật sự trong học thut vỊ x· héi, mét trong nh÷ng u tè chđ
u của bớc ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đà thực hiện trong triết
học. Vì vậy em nghiên cứu vấn đề Phân tích thực chất của cuộc cách
mạng trên lĩnh vùc triÕt häc do M¸c - ¡ngghen thùc hiƯn – ý nghĩa của
vấn đề đó cho bài tiểu luận của mình.
Nội dung
1. Vấn đề cơ bản của triết học
Triết học là hệ thống những quan điểm chung về thế giới, nó xuất hiện
vào thời kỳ phát sinh và phát triển của xà hội chiếm hữu nô lệ ở thời cổ đại,
vào khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trớc công nguyên với những thành
tựu rực rỡ trong các nền triết học cổ đại ở Trung Quốc, ấn Độ và Hy Lạp.
Trong gần 3000 năm tồn tại và phát triển, triết học có nhiều trờng phái
và hệ thống khác nhau. Các hệ thống và trờng phái đó phản ánh trình độ phát
triển về kinh tế xà hội, chính trị và trình độ phát triển của các tri thức khoa
học tự nhiên của các nớc. Lẽ đơng nhiên, sự phản ánh đó tuỳ thuộc vào lập trờng của các giai cấp nhất định.
Khi nghiên cứu các hệ thống, các trờng phái triết học, chủ nghĩa Mác
cho rằng, vấn đế quan trọng hàng đầu, vấn đề cơ bản lớn hay vấn đề tối
cao của triết học là vấn đề quan hệ giữa t duy và tồn tại, giữa tinh thần và
thế giới tự nhiên. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào có trớc, cái nào có sau và cái
nào quyết định?
Thứ hai, ý thức của chúng ta có thể phản ¸nh trung thùc thÕ giíi kh¸ch
quan kh«ng? Hay nãi mét cách khác, con ngời có khả năng nhận thức thế
giới hay không?
Vấn đề quan hệ giữa tồn tại và t duy hay giữa vật chất và ý thức là vấn
đề cơ bản trong tất cả vấn đề mà triết học tập trung giải quyết. Bởi vì, một là,
đó là vấn ®Ị triÕt häc réng nhÊt, chung nhÊt; hai lµ, nÕu không giải quyết đợc
vấn đề này thì không thể tiếp tục giải quyết các vấn đề khác, những vấn đề ít
chung hơn; ba là, giải quyết vấn đề này nh thế nào sẽ quyết định tính chất
của thế giới quan của các nhà triết học. Và thế giới quan ấy là cơ sở tạo ra
phơng hớng để xem xét và giải quyết tất cả những vấn đề còn lại. Các học
thuyết triết học đợc chia thành hai trào lu cơ bản: duy vật hay duy tâm, điều
đó tuỳ thuộc vào việc giải quyết vấn đề cơ bản này.
Các hệ thống triết học thừa nhận tồn tại, tự nhiên, vật chất là cái có trớc; ý thức, tinh thần, t duy là cái có sau, đó là chủ nghĩa duy vật. Còn các hệ
thống triết học coi ý thức là cái có trớc, tồn tại là cái có sau là trào lu duy
tâm. Việc xem xét và giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là tiêu chuẩn
khoa học duy nhất để xác định các học thuyết triết học đÃ, đang và sẽ tồn tại
là thuộc trào lu nào: duy tâm hay duy vật.
Các trào lu cơ bản trong triết học chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm luôn luôn đấu tranh với nhau. Cuộc đấu tranh giữa các trào lu
triết học là biểu hiện về mặt t tởng của cuộc đấu tranh giai cấp và phản ánh
tồn tại xà hội của các giai cấp, các tầng lớp trong xà hội. Thông thờng, chủ
nghĩa duy vật là biĨu hiƯn vỊ mỈt triÕt häc cđa hƯ t tëng các giai cáp và các
tầng lớp tiến bộ, các lực lợng xà hội quan tâm đến sự phát triển xà hội. Chủ
nghĩa duy tâm là biểu hiện về mặt triết häc cđa c¸c giai cÊp, c¸c nhãm x· héi
bảo thủ, các đảng phái chính trị phản động, không quan tâm đến sự phát triển
xà hội. Các nhà duy vật với t cách là các nhà t tởng của các lực lợng xà hội
tiến bộ thờng lấy những thành tựu, kết quả của khoa học tiến tiến mà thực
tiễn làm cơ sở cho thế giới quan của mình. Còn các nhà duy tâm luôn luôn
gắn với tôn giáo, củng cố vị trí của tôn giáo bằng những luận cứ triết học duy
tâm.
Sự xuất hiện các giai cấp đối kháng và chế độ ngời bóc lột ngời, việc
tách lao động trí óc khỏi lao động chân tay là những nguyên nhân xà hội làm
cho chủ nghĩa duy tâm xuất hiện. Các đại biểu của các giai cấp bóc lột, thống
trị độc quyền hoạt động trí óc luôn mong muốn tạo ra ấn tợng rằng, dờng nh
lao động chân tay, hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng lao động là
cái thứ yếu, cái phụ thuộc của lao động trí óc. Họ cho rằng lao động trí óc
đóng vai trò chủ yếu trong đời sống xà hội. Sự khẳng định này của các t tởng
gia của giai cấp phản động không tránh khỏi dẫn tới chủ nghĩa duy tâm triết
học, tới những mu toan, luận chứng các hiện tợng tinh thần là cái có trớc, các
hiện tợng vật chất là cái có sau.
2. T tởng triết học của Hêghen và Phoi ơbắc và nguồn gốc ra đời
của Triết học Mácxít
a) T tởng triết học của Hêghen và Phoi ơbắc
- Hêghen: Triết học Hêghen là biểu hiện của sự phát triển đầy đủ nhất
và rực rỡ nhất của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức. Hêghen là nhà t tởng của
giai cấp t sản Đức, ngời thể hiện chính sách thoả hiệp về chính trị của giai
cấp t sản với giai cÊp phong kiÕn q téc Phỉ. Quan ®iĨm triÕt häc của ông là
hệ thống duy tâm cổ điển cuối cùng, là trình độ cao nhất của sự phát triển
phép biện chứng duy tâm.
Hêghen là nhà duy tâm khách quan. Ông coi tinh thần thế giới là cái
có trớc, vật chất với tính cách dờng nh là sự thể hiện, sự biểu hiện cụ thể của
tinh thần thế giới, là cái có sau; tinh thần là đấng sáng tạo ra vật chất.
Tinh thần thế giới ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn và chứa đựng
dới dạng tiềm năng tất cả mọi hiện tợng của tự nhiên và xà hội. Nó là nguồn
gốc và động lực của mọi hiện tợng tự nhiên và xà hội. Tinh thần thế giới hay
ý niêm tuyệt đối trong quá trình tự phát triển của nó diễn ra qua các giai đoạn
khác nhau, ngày càng thể hiện đầy đủ nội dung bên trong của nó. Đầu tiên nó
phát triển trong bản thân nó, sau đó nó thể hiện dới hình thức tự nhiên thế
giới vô cơ, hu cơ và con ngời, tiếp nữa là thể hiện dứoi hình thức nhà nớc,
nghệ thuật, tôn giáo và triết học. Theo hệ thống của Hêghen, toàn bộ thÕ giíi
muôn màu, muôn vẻ là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên của ý niệm với
tính cách là lực lợng sáng tạo, là tổng hoà của mọi hình thức kh¸c nhau cđa
sù biĨu hiƯn cđa ý niƯm. Bëi vËy, học thuyết của Hêghen coi tính thứ nhất là
tinh thần, tính thứ hai là vạt chất. Đó cũng chính là sự thể hiện riêng về mặt
triết học những lời khảng định của tôn giáo rằng Thợng đế sáng tạo ra thế
giới.
Có thể nói, trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, Hêghen
chỉ lặp lại những điều mà các nhà duy tâm trớc đó đà nói. Song, cái mới
trong học thuyết của ông, chính là chỗ ông xem xét tinh thần thế giới, ý niệm
tuyệt đối là một quá trình tự phát triển không ngừng, và ông là một nhà triết
học hoàn chỉnh phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng của ý niệm tuyệt
đối, tinh thần thế giới với tính cách là cơ sở đầu tiên và nguồn gốc của mọi
tồn tại.
Hêghen đà phê phán phép siêu hình thống trị lúc đó và ông đà lấy phép
biện chứng đem đối lập với nó.
Các yếu tố biện chứng duy tâm có trong các tác phẩm triết học duy
tâm trớc Hêghen, nhng phép biện chứng duy tâm với tính cách là phơng pháp
ít nhiều hoàn chỉnh thì do Hêghen lập ra
Công lao của Hêghen so với những ngời tiền bối của ông là ở chỗ đÃ
phân tích một cách tổng hợp và biện chứng tất cả các phạm trù quan trọng
nhất của triết học và hình thành trên cơ sở duy tâm ba quy luật cơ bản của t
duy: quy luật chuyển hoá từ lợng thành chất, quy luật thâm nhập lẫn nhau
của các mặt đối lập và quy luật phủ định của phủ định.
- Phoi ơbắc: là nhà triét học duy vật, đại biểu cho tâng lớp dân chủ cấ
tiến trong giai cấp t sản Đức. Ông đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa duy
tâm của Hêghen. Ông đà phê phán ý niệm tuyệt đối của Hêghen cũng nh chủ
nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung, khôi phục vị trí xứng đáng của triết học
duy vật.
Khi chống lại quan điểm duy tâm của Hêghen coi giới tự nhiên là tồn
tại khác của tinh thần, Phoi ơbắc đà chứng minh thế giới là vật chất, giới tự
nhiên tồn tại ngoài con ngời không phụ thuộc vào ý thức con ngời, là cơ sở
sinh sống của con ngời. Giới tự nhiên không do ai sáng tạo, nó tồn tại, vận
động nhờ những cơ sở bên trong nó.
Triết học của Phoi ơbắc mang tính chất nhân bản. Nó chống lại nhị
nguyên luận về sự tách rời giữa tinh thần và thể xác, ông coi ý thức tinh thần,
cũng là một thuộc tính đặc biệt của vật chất có tổ chức cao là óc ngời. Từ đó
cho phép khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa tồn tại và t duy.
Phoi ơbắc không chỉ chống lại chủ nghĩa duy tâm, mà với triết học
nhân bản của mình ông còn đấu tranh chống những quan điểm duy vật tầm
thờng quy các hiện tợng tâm lý tinh thần về các quá trình lý hoá, không thấy
sự khác nhau về chất giữa chúng, chẳng hạn nh coi óc tiết ra t tëng cịng nh
gan tiÕt ra mËt.
MỈt tÝch cùc trong triÕt học nhân bản của Phoi ơbắc còn thể hiện ở chỗ
ông đấu tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo Thiên
chúa, đặc biệt quan niệm về Thợng đế. Trái với các quan niệm truyền thống
của tôn giáo và thần học cho rằng Thợng đế tạo ra con ngời, ông khẳng định,
chính con ngời sáng tạo ra Thợng đế. Khác với Hêghen nói đến sự tha hoá
của ý niệm tuyệt đối, Phoi ơbắc nói đến sự tha hoá của bản chất con ngời vào
Thợng đế. Ông lập luận rằng, bản chất tự nhiên của con ngời là muốn hớng
tới cái chân, cái thiện nghĩa là hớng tới nhứng cái gì đẹp nhất trong một hình
tợng đẹp nhất về con ngời, nhng trong thực tế những cái đó con ngời không
đạt đợc nên gửi gắm tất cả ớc muốn của mình vào hình tợng Thợng đế. Từ đó
Phoi ơbắc đà đi đến phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị Thợng
đế siêu nhiên, đứng ngoài, sáng tạo ra con ngời, chi phối cuộc sống con ngời.
Triết học của Phoi ơbắc cũng bộc lộ những hạn chế. Chẳng hạn, kho
ông đòi hỏi triết học mới triết học nhân bản, phải gắn liền với tự nhiên
đồng thời đà đứng trên lập trờng của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện
tợng thuộc về con ngời vµ x· héi. Con ngêi, theo quan niƯm cđa Phoi ơbắc là
con ngời trừu tợng, phi xà hội mang những thuộc tính sinh học bẩm sinh.
Triết học nhân bản của Phoi ơbắc chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy
tâm. Ông nói rằng, bản tính con ngời là tình yêu, tôn giáo cũng là một tình
yêu. Do vậy, khi thay thế cho thứ tôn giáo tôn sùng một vị thợng đế siêu
nhiên cần xây dựng một thứ tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con ngời.
Ông cho rằng cần phải biến tình yêu thơng giữa con ngời thành mối quan hệ
xà hội khác, thành lý tởng xà hội. Trong điều kiện của xà hội t sản Đức bấy
giờ, với sự phân chia và đối lập giai cấp thì chủ nghĩa nhân đạo của Phoi ơbắc
về tình yêu thơng giữa con ngời trở thành chủ nghĩa nhân đạo trừu tợng, duy
tâm.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, Phoi ơbắc
đà không biết rút ra từ đó cái hạt nhân hợp lý mà đà vứt bỏ luôn cả phép
biện chứng của Hêghen.
Mặc dù có nhng hạn chế, triết học của Hêghen và Phoi ơbắc có ý nghĩa
to tớn trong lịch sử triết học và trở thành một trong những nguồn gốc lý ln
quan träng cđa triÕt häc M¸c
b) Ngn gèc ra ®êi cđa triÕt häc M¸c xÝt
TriÕt häc M¸c (chđ nghÜa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử) là bộ phận cấu thành và là cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác, đồng thời là
chìa khoá để giải thích trên cơ sở khoa học quá trình phát triển của t tởng
nhân loại.
Quê hơng của chủ nghĩa Mác là nớc Đức. Sự phát triển mạnh mẽ của
lực lợng sản xuất ở Anh, Pháp, Đức và các nớc t bản chủ nghĩa khác đÃ
chứng tỏ phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa u việt hớn hẳn phơng thức sản
xuất phong kiến. Song, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa t bản, những
mâu thuẫn giai cấp xà hội vốn có của bản thân nó cũng nảy sinh và ngày
càng bộc lộ gay gắt, trớc hết là mâu thuẫn giữa hai giai cấp vô sản và t sản.
Mâu thuẫn này là biểu hiện về mặt xà hội của mâu thuẫn cơ bản của phơng
thức sản xuất t bản chủ nghĩa, mẫu thuẫn giữa tính chất xà hội hoá và trình
độ phát triển ngày càng cao của lực lợng sản xuất với quan hệ sản xuất t nhân
t bản chủ nghĩa.
Trong thời kỳ này, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản phát triển
mạnh mẽ. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở nhiều nơi đà trở thành cuộc
khởi nghĩa với những yêu sách giai cấp rõ ràng. Khởi nghĩa của công nhân
Liông (Pháp) năm 1831 và năm 1834, cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Xilêdi
(Đức) năm 1844, phong trào Hiến chơng ở Anh vào cuối những năm 30 đầu
những năm 40 của thế kỷ XIX đà thu hút sự chú ý của các đại biểu tiên tiến
của các tầng lớp tri thức t sản tiến bộ, trớc hết là C.Mác và Ph.Ănghen tới vấn
đề nguyên nhân, bản chất của các cuộc đấu tranh giai cấp xà hội và những
triển vọng của các cuộc đấu tranh giai cấp ấy. Rõ ràng những cuộc đấu tranh
giai cấp ở các nớc t bản chủ nghĩa tiên tiến ở châu Âu những năm 30-40 của
thế kỷ XIX là nhân tố khách quan chứng tỏ rằng đà có những tiền đề xà hộigiai cấp và những điều kiện để xt hiƯn chđ nghÜa duy vËt biƯn chøng vµ
chđ nghÜa duy vật lịch sử; là chứng cứ để nói rằng nhu cầu xà hội đà chín
muồi đề xuất hiện một thế giới quan triết học mới triết học mácxít.
Những t tëng x· héi trùc tiÕp xt hiƯn tríc chđ nghĩa Mác và biểu
hiện rõ ràng nhất và kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xà hội không tởng pháp, triết học cổ điển Đức. Trong những học thuyết ấy chứa đựng
những giá trị về mặt lịch sử. Đó là, lý luận giá trị lao động của Smith vµ
Ricardo, là những dự đoán thiên tài của Xanh ximông và Phuriee về một số
đặc điểm của xà hội xà hội chủ nghĩa tơng lai và sự phê phán của các ông đối
với xà hội t bản. Đó là phép biện chứng duy tâm của Hêghen và kiến giải duy
vật về vấn đề cơ bản của Triết học trong các tác phẩm của Phoiơbắc. Những
học thuyết đó là những đỉnh cao cđa sù ph¸t triĨn t tëng lý ln x· hội loài
ngời trong thời kỳ trớc Mác. Sự phát triển hơn nữa về kinh tế chính trị học, lý
luận về chđ nghÜa x· héi khoa häc vµ triÕt häc chØ có thể có đợc với sự ra đời
của phép biện chứng duy vật. Song, rõ ràng những thành tựu đà đạt tới của
nhân loại lại là những tiền đề lý luận tất yếu về mặt lịch sử và là nguồn gèc
cđa chđ nghÜa M¸c nãi chung, cđa triÕt häc m¸cxÝt nói riêng.
Vào giữa thế kỷ XIX, nhân loại đà đạt tời những đỉnh cao trong khoa
học tự nhiên. Các nhà khoa học tự nhiên nh R.Maye (Đức), P.P Giulơ (Anh),
E.Kh. Lenxơ (Nga), L.A.Cônđinh (Đan Mạch) đà xác định sự thật về chuyển
hoá năng lợng. R.Maye và P.P Giulơ đà nên lên thành định luật bảo toàn và
chuyển hoá năng lợng, đà chứng minh sự phát triển của vật chất là một quá
trình vô tận của sự chuyển biến những hình thức vận động của chúng. Các
nhà sinh vật học ngời Đức nh Svan và Slâyđen đà đa ra lý luận tế bào, chứng
minh rằng các tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển của tất cả các cơ
thể động vật và thực vật, và do vậy tìm ra bản chất sự phát triển của cơ thể
động vật, thực vật đều là sự phát triển bằng sự hình thành tế bào.
Nhà khoa học ngời Anh là Đácuyn cũng đà phát hiện là lý luận duy vật
về nguồn gốc và sự phát triển của các loài thực vật và động vật. Chính định
luật bảo toàn và chuyển hoá năng lợng, lý luận tế bào, học thuyết về sự xuất
hiện và phát triển các loài là tiền đề về mặt khoa học tự nhiên của chủ nghĩa
duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa Mác ra đời trong bối cảnh ấy và nó là sản phẩm mang tính
quy luật của khoa học và triết học mà nhân loại đà đạt tới, nó đợc hình thành
nh là kết quả của các phát hiện của Mác và Ăngghen về những quy luật
chung nhất của sù ph¸t triĨn thÕ giíi. Chđ nghÜa M¸c do C.M¸c và Ph.
Ăngghen sáng lập là một học thuyết thống nhất, hoàn chỉnh, gồm ba bộ phận
cấu thành: triết học mácxít, kinh tế chính trị học mácxít và chủ nghĩa xà hội
khoa học.
3. Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác Ăngghen thực hiện
Sự hình thành thế giới quan duy vật của Mác và Ăngghen cũng đồng
thời là qúa trình nghiên cứu những cơ sở của chủ nghÜa duy vËt biÖn chøng
của các ông diễn ra trong nửa đầu của những năm 40 thế kỷ XIX dới ảnh hởng trực tiếp của phong trào công nhân và những phát minh về khoa học tự
nhiên và khoa học xà hội, trong quá trình đấu tranh chống phép biện chứng
duy tâm của Hêghen và phê phán chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc.
Trong giai đoạn đầu, trớc nửa năm sau của năm 1843, Mác và
Ăngghen là những nhà biện chứng duy tâm. Hai ông tiếp nhận phép biện
chứng của Hêghen, song có thái độ đối lập với hệ thống siêu hình của triết
học Hêghen và các kết luận chính trị phản động xuất phát từ hệ thống triết
học ấy. Quan điểm chính trị và xà hội của Mác và Ăngghen thời kỳ này là
quan điểm dân chủ cách mạng. Song, ngay từ năm 1842, khi Mác còn làm
biên tập viên Báo Rainơ tại Côlônhơ và khi Ăngghen đang nghiên cứu tình
cảnh giai cấp công nhân Anh, các ông đà có những biểu hiƯn chun tõ chđ
nghÜa duy t©m sang chđ nghÜa duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang
chủ nghĩa cộng sản.
Đặc điểm nổi bật trong hoạt động của hai ông khi nghiên cứu các
thành tựu của khoa học và triết học là nghiên cứu một cách có phê phán và sự
sáng tạo của các ông là nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị
xà hội. Khi Mác làm biên tập viên Báo Rainơ, ông đà bày tỏ ý kiến của mình
trên báo trí về vai trò và ý nghĩa của các lợi ích vật chất trong ®êi sèng x·
héi, nh÷ng vÊn ®Ị kinh tÕ x· héi đặt ra ở tỉnh Rainơ, về vấn đề sở hữu đất,
vấn đề đốn rừng, về thơng nghiệp và về thuế quan b¶o hé... Nhng khi sư dơng
phÐp biƯn chøng duy tâm và học thuyết về nhà nớc và pháp quyền của
Hêghen, Mác đà rơi vào tình trạng khó xử, không giải đáp đợc các vấn đề của
thực tiễn chính trị xà hội đặt ra. Lúc này, chính Mác đà cảm thấy rằng những
lợi ích vật chất của con ngời trong ®êi sèng x· héi d· ®ãng mét vai trß quan
träng đặc biệt. Mác đà đi tới kết luận rằng, phải nghiên cứu sâu sắc hơn nữa
những vấn đề kinh tế chính trị và phải xem xét lại một cách có phê phán
những quan điểm triết học và pháp quyền của Hêghen.
Trong thời kỳ công tác tại Báo Rainơ, trong quan điểm của Mác có cả
quan điểm của chủ nghĩa xà hội không tởng, song, vì cha đủ những tri thức
sâu sắc về những vấn đề đó, nên ông đà không thể bày tỏ quan điểm của
mình về các học thuyết x· héi chđ nghÜa cđa nh÷ng ngêi tiỊn bèi.
Sau khi rời ban biên tập Báo Rainơ, Mác hoàn toàn dành thời gian để
giải quyết những vấn đề đà đặt ra cho ông trong thời kỳ công tác tại tờ báo.
Ông đà biết một bài luận văn lớn dành cho việc phê phán triết học pháp
quyền của Hêghen. Tháng 10-1843, ông sang Pari, cố gắng nghiên cứu các
vấn đề kinh tế chính trị học và lịch sử các phong trào cách mạng. Tại đây,
ông đà tham gia các cuộc hội họp của công nhân, đặt mối quan hệ với các
nhà lÃnh đạo của các tổ chức công nhân bí mật Pháp và Đức. Những năm
1843-1844 là thời kỳ ông chuyển hoàn toàn sang lập trờng của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản. Các bài của Mác đăng trên Niên giám
Pháp Đức mà số đầu xuất bản tại Pari vào tháng 2 –1844 ®· thĨ hiƯn râ
sù chun biÕn ®ã. Trong thêi kỳ này Mác ở Pari, Ăngghen ở Anh, hai ông
độc lập trong việc nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân, sống gần gũi với
họ, giải thích vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân với tính cách là
giai cấp cách mạng triệt để, tiêu biểu cho lực lợng sản xuất mới và phơng
thức sản xuất mới trong tơng lai, vợt chủ nghĩa t bản. Trong thời kỳ này, qua
nghiên cứu và thực tiễn, các ông đà khắc phục đợc phép biện chứng duy tâm,
và sự hạn chế của chủ nghĩa duy vật siêu hình, hình thành những cơ sở của
chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Quá trình phát triển thế giới quan của Mác là một quá trình không đơn
giản, mà nó đợc gắn với sự phát triển của khoa học và thực tiễn chính trị
xà hội. Đó là một qúa trình thống nhất hai mặt, cải biến theo chủ nghĩa duy
vật cái nội dung hợp lý của phép biện chứng duy tâm của Hêghen và giải
thích theo phép biện chứng cách giải quyết duy vật vấn đề cơ bản của triết
học, khắc phục phép siêu hình. Đó là một quá trình đồng thời khắc phục phép
biện chứng duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình, đặt nền móng cho chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Triết häc cđa M¸c kh¸c vỊ chÊt víi triÕt häc cđa Phoi ơbắc và Hêghen.
Phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng ý niệm. Hêghen chỉ mới
phỏng đoán phép biện chøng cđa sù vËt trong phÐp biƯn chøng cđa ý niệm.
Đối lập với Hêghen, Mác và Ănghen cho rằng phép biện chứng của khái
niệm chỉ là sự phản ánh phép biƯn chøng cđa thÕ giíi kh¸ch quan trong ý
thøc cđa con ngời. Lời mở đầu tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen đăng trong Niên giám Pháp - Đức tháng 2 1844, đà thể hiện rõ sự
chuyển biến của Mác từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Mác từng viết: tác phẩm đầu tiên mà ông dành để giải quyết những
nghi ngờ đà có trong ông là sự phân tích có phê phán triết học pháp quyền
của Hêghen. Mác còn viết: nghiên cứu của ông đà dẫn ông đến kết luận rằng,
những quan hệ pháp quyền, cũng nh các hình thức nhà nớc, không thể hiểu từ
bản thân chúng, từ cái gọi là sự phát triển chung của tình thần con ngời, mà
ngợc lại, chóng ta cã ngn gèc tõ nh÷ng quan hƯ vËt chÊt cđa ®êi sèng.
Cũng trong Lời mở đầu này, Mác đà giải thích trên cơ sở chủ nghĩa
duy vật vấn đề nhà nớc, pháp quyền, triết học, tôn giáo. Khác với những nhà
triết học trớc Mác, ông đà hiểu một cách hoàn toàn mới những nhiệm vụ của
triết học do ông đề ra, ông đà coi triết học là thứ vũ khí để cải tạo thế giới, nó
có nhiệm vụ phục vụ cho thực tiễn đấu tranh chính trị xà hội. Cung với
việc phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Mác đà phê phán trên quan
điểm chính trịt thực tiễn cái mà nhà nớc đơng thời, cái hiện thực tồn tại là
hợp lý của Hêghen, Mác đà kiên quyết phủ định cả cái hình thức đang tồn
tại của ý thức pháp quyền và nền chính trị Đức đang tồn tại lúc đó. Đồng
thời, Mác nhấn mạnh đến ý nghĩa to lớn của t tởng tiên tiến trong cải tạo xÃ
hội và nhà nớc. Ông chỉ ra sự tất yếu phải phát triển những t tởng tiên tiến
trong quần chúng nhân dân, ®Ĩ nã trë thµnh mét ®éng lùc thóc ®Èy sù tiÕn bé
x· héi. LuËn chøng mét c¸ch duy vËt vai trò của lý luận tiên tiến trong mối
quan hệ của nó với thực tiễn cách mạng, Mác viết Vũ khí của sự phê phán
cố nhiên không thể thay thế đợc sự phên phán của vũ khí, lực lợng vật chất
chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lợng vật chất; nhng lý luận cũng sẽ trở thành
lực lợng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng
ý nghĩa lớn lao của Lời mở đầu trong tác phẩm Phê phán triết học
pháp quyền của Hêghen là ở chỗ, lần đầu tiên, Mác đà phát biểu với t cách là
nhà các mạng, trực tiếp hớng tới giai cấp vô sản, với tính cách là lÃnh tụ của
quần chúng nhân dân, và coi triết học của ông là triết học của giai cấp vô sản,
là vũ khí t tởng của cuộc đấu tranh giai cấp vô sản để cải biến cách mạng đối
với xà hội. Mác viết: Giống nh triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khi vật
chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của
mình
Khi phê phán triết học của Hêghen về mặt nhà nớc và pháp quyền,
Mác thực hiện một thể nghiệm đầu tiên đặc biệt có kết quả là mở rộng chủ
nghĩa duy vật sang lĩnh vực các hiện tợng xà hội. Lần đầu tiên trong lịch sử,
ông chỉ ra sức mạnh và hiệu lực của phép biện chứng duy vật, là phơng pháp
tạo ra khả năng phát hiƯn c¸c quy lt kh¸ch quan cđa sù ph¸t triĨn xà hội,
cho phép giải quyết một cách triệt để những nhiệm vụ nhận thức không thể
giải quyết đợc nếu đứng trên lập trờng của phép biện chứng duy tâm, hay
đứng trên lập trờng của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
Bởi vậy, ngay trong Lời mở đầu tác phẩm trên, Mác đà bắt đầu nghiên
cứu những nguyên tắc của phép biện chứng duy vật và quan điểm duy vật
lịch sử. Đồng thời với Mác, Ăngghen cũng đà nghiên cứu những nguyên t¾c
cđa chđ nghÜa duy vËt lÞch sư. Chøng cø hïng hồn là bài báo Sơ thảo về phên
phán kinh tế chính trị học cùng đăng trên Niên giám Pháp - Đức số tháng
2 1844. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của C.Mác và Ph.Ăngghen diễn ra vào
tháng 11-2842, khi Mác làm biên tập viên cho Báo Rainơ. Tháng 8-1844, tại
Pari, trên đờng từ Anh về Đức diễn ra cuộc gặp gỡ thứ hai. Và từ đó, hai ông
đà có mối quan hệ bền chặt, gắn bó trong cả cuộc đời. Từ đó hai ông cùng
làm việc để sáng tạo ra chđ nghÜa duy vËt biƯn chøng vµ chđ nghÜa duy vật
lịch sử, sáng tạo ra kinh tế chính trị học mác xít và lý luận của chủ nghĩa xÃ
hội khoa häc.
4. ý nghÜa
Víi sù ra ®êi cđa triÕt häc Mác, vai trò xà hội của triết học cũng nh vÞ
trÝ cđa triÕt häc trong hƯ thèng trÞ thøc khoa học cũng biến đổi.
Các nhà triết học đà chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau
song vấn đề là cải tạo thế giới Luận điểm đó của Mác nói lên sự khác nhau
về chất giữa triết học của «ng víi c¸c häc thut triÕt häc tríc kia, kĨ cả
những học thuyết triết học tiến bộ. Tuy vậy, Mác không hề phủ nhận, trái lại
Mác đà đánh giá cao vai trò to lớn trong sự phát triển xà hội. Chẳng hạn, Mác
khâm phục và đánh giá rất cao chủ nghĩa vô thần triết học của các nhà duy
vật Pháp thế kỷ XVII. Song, mặt hạn chế về tính thực tiễn là khuyết điểm
chủ yếu của mọi học thuyết duy vật trớc Mác nên nó cha trở thành công cụ
nhận thức khoa học để cải tạo thế giới bằng cách mạng. Nay nó đà đợc Mác
khắc phục, vợt qua và đi tới chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cho chủ nghĩa duy
vật trở thành triệt để.
Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, một
giai cấp tiến bộ và cách mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích
cơ bản của nhân dân lao động và với sự phát triển xà hội. Sự kết hợp lý luận
của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân đà tạo nên bớc chuyển về chất
của phong trào, từ trình độ tự phát lên tự giác. Phép biện chứng mác xít mang
tính cách mạng sâu sắc nhất vì trong quan niệm tích cực về cái hiện tồn,
phép biện chứng đồng thời bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện tồn
đó, sự diệt vong tất yếu của nó, vì mỗi hình thái đà hình thành đều đ ợc phép
biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái
đó; vì phép biện chứng không khuất phục trớc một cái gì cả về thực chất thì
nó có tính chất phê phán và cách mangj. Sức mạnh cải tạo thế giới của
triết học mác xít chính là sự gắn bó mật thiết cuộc đấu tranh cách mạng cña
quần chúng nhân dân đông đảo, nhờ đó lý luận sẽ trở thành lực lợng vật
chất
Triết học Mác cũng đà chấm dứt tham vọng ở nhiều nhà triết học duy
tâm coi triết học là khoa học của các khoa học đứng trên mọi khoa học.
Mác và Ăngghen đà xây dựng lý luận triết học của mình trên cơ sở khái quát
các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xà hội. Theo Ăngghen, mỗi
lẫn có một phát minh vạch thời đại, ngay cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên,
thì chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi phải thay đổi hình thức của nó. Ngợc
lai, Triết học Mác lại trở thành thế giới quan khoa học và phơng pháp luận
chung cần thiết cho sự phát triển của các khoa học. Sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học ngày nay càng chứng tỏ sự cần thiết phải có t duy biện chứng
duy vật và ngợc lại phải phát triển lý luận triết học của chủ nghĩa Mác dựa
trên những thành tựu của khoa học hiện đại.
Kết luận
Triết học Mác đà khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép
biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học. Mác và Ăngghen đà giải
thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình, Mác đà làm cho chủ
nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới
tự nhiên đến chỗ nhận thức xà hội loài ngời: Chủ nghĩa duy vật lịch sử của
Mác là thành tựu vĩ đại nhÊt cña t tëng khoa häc”
Tài liệu tham khảo
1.
2.
3.
4.
5.
Giáo trình triết học- Bộ Giáo dục và đào tạo
Giáo trình triết học Học viện CTQG Hồ Chí Minh
Tạp chí Giáo dục lý luận
Tạp chí Lý Luận chính trị
Tạp chí Cộng sản
Mục lục
Lời mở đầu.........................................................................................................1
Nội dung
1. Vấn đề cơ bản của triết học...........................................................................2
2. T tởng triết học của Hêghen và Phoi ơbắc và nguồn gốc ra đời của Triết
học Macxit.........................................................................................................4
3. Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ănghen thực
hiện....................................................................................................................9
4. ý nghĩa........................................................................................................13
Kết luận...........................................................................................................15
Tài liệu tham khảo...........................................................................................16