Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tất cả những gì bạn muốn biết về cây Nha đam (ALOE VERA) (Kỳ 2) ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.67 KB, 5 trang )

Tất cả những gì bạn muốn biết về cây Nha đam
(ALOE VERA)
(Kỳ 2)



ĐẶC TÍNH THỰC VẬT
Nha đam thuộc loại cây nhỏ, gốc thân hóa gỗ, ngắn. Lá dạng bẹ, không có
cuống, mọc vòng rất sát nhau, màu từ lục nhạt đến lục đậm. Lá mọng nước, mép lá
có răng cưa thô như gai nhọn, cứng tùy theo loại, mặt trên lõm có nhiều đốm
không đều, lá dài từ 30 - 60 cm. Phát hoa ở nách lá, có thể dài đến 1 m, mang rất
nhiều hoa mọc rũ xuống, với 6 cánh hoa dính nhau ở phần gốc, 6 nhị thò. Quả
nang chứa nhiều hột.
Cây Nha đam rất dễ trồng nơi ráo nước, nhiều nắng nhưng cần tưới 2 - 3
ngày 1 lần. Trồng bằng chồi non phát xuất từ gốc. Có thể trồng trong chậu kiểng.
Cây tuy thích ánh sáng mặt trời nhưng cũng chịu được bóng râm 50% và đất cằn
cỗi. Aloe vera không phát triển được ở nơi có mùa đông dưới 60C. Trong số hơn
300 loài Aloe, ngoài Aloe vera, Aloe ferox… dùng làm thuốc, còn một loài được
dùng làm cây cảnh rất đẹp, như Aloe variegata (Lô hội mỏ két) có hoa màu đỏ;
Aloe maculata (Lô hội vằn), hoa màu da cam

THÀNH PHẦN HÓA HỌC
Aloe vera là nguồn cung cấp hai dược liệu khác hẳn nhau.
Dược liệu thứ nhất là một chất nhựa Aloe, ở ngay dưới lớp biểu bì hay “da”
mỏng của lá có những tế bào đặc biệt gọi là tế bào trụ bì (là những tế bào gân màu
lục ở mặt ngoài miếng gel khi ta gọt bỏ lớp vỏ màu lục phía ngoài), chứa một chất
nước cốt màu vàng lục, sau khi chảy ra, tự cô đặc lại ở nhiệt độ bình thường, có
màu vàng nâu, óng ánh và rất đắng, đông y cũng gọi là Nha đam (nhựa khô).
Chất nước cốt tự khô này chứa các hoạt chất hydroanthron: gồm các chuyển
hóa chất hydroanthracen, mà những chất quan trọng nhất là aloin A và B (từ 25
đến 40%). Hỗn hợp aloin A và B còn được gọi là Barbaloin; hydroxy-aloin A và B


(từ 3 đến 4%); một ít aloe-emodin và chrysophanol. Các chuyển hóa chất
Chromon gồm 8-C-glycosyl chromon, còn gọi aloeisin (khoảng 30%) và các
aloeresin A và B.
Dược liệu thứ hai là một chất nhày gọi là gel Aloe. Chất gel này có thể lấy
bằng cách gọt bỏ vỏ lá Nha đam màu lục rồi nghiền nát miếng gel trong suốt trong
lá. Chất gel này chứa một loại polysaccharid gồm: pectin, hemicellulose, gluco
mannan, acemannan và các chuyển hóa chất mannose.
Trong Nha đam còn có thêm những chất khác như: enzym: bradykinase,
các acid amin, lipid, sterol (lupeol, campesterol, beta-sitosterol), tanin, hợp chất
hữu cơ loại magnesium lactat, một chất kháng-prostaglandin…


DƯỢC TÍNH & CÁCH SỬ DỤNG
NHA ĐAM TRONG ĐÔNG Y
Đông y cổ truyền dùng Nha đam dưới dạng chất nhựa khô từ nhựa lá cô
đặc. Dược liệu được lấy từ các loài Aloe vera var. chinensis hay A. ferox trồng tại
các tỉnh phía nam.
Theo đông y thì Nha đam hay Lư hội có vị đắng, tính hàn, tác dụng vào các
kinh thuộc can, vị và đại trường. Nha đam có tác dụng hạ hỏa, tống ứ: dùng để trị
táo bón, chóng mặt, mắt đỏ và tinh thần cáu kỉnh do ở “nhiệt” ứ.
Dùng chung với Chu sa (Cinnabaris) để trị táo bón kinh niên do nhiệt ứ.
Nha đam diệt được ký sinh trùng, và bổ được vị: trị được trẻ em chậm phát triển vì
sán lãi. Nha đam “thanh nhiệt” và làm mát gan: trị các chứng đau hạ vị, chóng
mặt, nhức đầu, ù tai, cáu bực, bón và sốt nóng do ở nhiệt tại kinh can.
Nha đam được dùng chung với rễ Long đởm (Radix Gentianae) và Hoàng
cầm (Radix Scutellariae Baicalensis). Liều dùng Nha đam trong đông y: từ 0,3 -
1,5 gr dưới dạng viên, hoàn hoặc bột (không công hiệu khi dùng dưới dạng thuốc
sắc).

NHA ĐAM TRONG TÂY Y

Tây y sử dụng Nha đam như hai loại dược phẩm khác hẳn nhau: Aloe gel
và nhựa Aloe.

×