Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.91 KB, 5 trang )
Vị thuốc từ khổ qua
Mướp đắng còn gọi là khổ qua, ổ qua, lương qua, mướp mủ, tên khoa
học Momordica charantia L., thuộc họ bầu bí (Cucurbitaceae). Cây leo nhờ
tua cuốn. Thân có cạnh, ở ngọn có lông dài. Lá mọc so le, phiến lá chia 5 - 7
thùy, mép khía răng cưa, trên gân lá có lông ngắn.
Hoa đực và hoa cái mọc riêng lẻ; cánh hoa màu vàng nhạt. Quả hình
thoi dài, mặt ngoài có nhiều u lồi; quả non màu vàng xanh, quả chín màu
vàng hồng, chứa nhiều hạt dẹp có màng đỏ bao xung quanh.
Phân bố và sinh thái: Mướp đắng gốc ở châu Phi, đã được thuần hóa ở Ấn
Độ và nhiều nước nhiệt đới. Ở nước ta, nó được trồng ở khắp nơi trong các nương
rẫy và vườn gia đình.
Chế biến làm thực phẩm: Hầu như mọi người đều biết ăn mướp đắng:
mướp đắng nấu với tôm, thịt heo nạc, mướp đắng ninh xương, hấp với thịt băm,
muối dưa, làm nộm, xào, kho, ăn sống làm món ăn bổ mát, chống viêm nhiệt.
Ngoài ra mướp đắng còn được chế thành trà (trà khổ qua) dùng để uống thay trà
mạn rất tốt. Người ta đã biết thành phần dinh dưỡng tính theo g%: protid 0,9,
glucid 3, cellulose 1,1 và theo mg%: calcium 18, phosphor 29, sắt 0,6, - caroten
40, vitamin B1 0,07 và vitamin C 22. Trong quả mướp đắng có một glycosid đắng
gọi là momordicin và các vitamin B1, C, các acid amin như adenin, betain v.v…
Hạt chứa một chất dầu và một chất đắng.
Sử dụng làm thuốc: Quả mướp đắng quý vì nó là một loại rau, vừa là một vị
thuốc. Hải Thượng Lãn Ông đã viết trong Lĩnh Nam bản thảo:
“Khổ qua tục gọi quả mướp đắng;
Hột nó ích khí, làm dương tráng (tráng dương),
Bổ hư lao, mát tim rất hay,
Khổ hàn chữa tạng nhiệt, mắt sáng.”