Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

CÔNG NGHỆ SÀN XUẤT GIỐNG CÁ CHÉP doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.59 KB, 10 trang )

CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT GIỐNG CÁ CHÉP V1
Cá chép V1 là kết quả của chương trình chọn giống cá chép và lưu giữ nguồn gen
thuỷ sản, do Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Mai Thiên ngun Viện trưởng chủ trì và tập
thể cán bộ cơng chức Viện Nghiên cứu Ni trồng Thuỷ sản I thực hiện.
Cá chép V1 đã tập hợp được những đặc điểm di truyền q : Chất lượng thịt
thơm ngon, khả năng chống chịu bệnh tốt của cá chép Việt Nam. Thân ngắn và cao
cùng tốc độ tăng trọng nhanh của cá chép Hungary, đẻ sớm và trứng ít dính của cá
chép Inđơnêxia.
Ni vỗ cá bố mẹ
Cá đưa vào ni vỗ có ngoại hình đẹp, khoẻ mạnh khơng có biểu hiện mắc bệnh.
Cá đực từ 0,8 kg/cá thể trở lên, cá cái từ 1,0 kg/cá thể trở lên. Cá đực và cá cái được
ni riêng ở các ao khác nhau với mật độ 1 kg/4 - 5m
2
.
Thời gian ni vỗ:
Cá được ni vỗ từ cuối tháng 9 năm trước, đến tháng 2 năm sau cá có thể bắt
đầu sinh sản.
Chăm sóc:
Liều lượng thức ăn chiếm 3 - 5% trọng lượng quần đàn. Ni vỗ tích cực hàm
lượng thức ăn được giảm dần từ 5 - 3% tuỳ thuộc vào thể trạng cá qua kiểm tra định
kỳ (1 tháng một lần). Ni vỗ thành thục thường trước khi cho cá đẻ từ 30 - 45 ngày
đối với chính vụ và 10 - 15 ngày với cá đẻ tái phát. Trong thời gian ni vỗ thành
thục cần cho cá ăn thêm mầm thóc.
Chọn cá cho đẻ
Chọn cá cái có bụng mềm, phần phụ sinh dục màu hồng. Hạt trứng rời nhau,
căng đều, màu sáng trắng. Cá đực được chọn là những cá thể khi vuốt nhẹ bụng gần
phần phụ sinh dục thấy có sẹ màu trắng sữa.
Kích dục tố
Kích dục tố thường dùng là LRH-A kết hợp với DOM. Cá cái được tiêm kích
dục tố 2 lần. Lần 1 tiêm 1/4 - 1/5 lượng thuốc cần tiêm, sau khoảng 6 đến 8 giờ tiêm
hết số thuốc còn lại. Cá đực chỉ tiêm 1 lần, trước khi tiêm lần 2 cho cá cái khoảng 2


giờ.
Thu trứng và sẹ
Trứng cá được vuốt vào bát men hoặc nhựa có đường kính khoảng 18 - 22 cm,
lòng bát phải trơn bóng. Sau khi đã thu được trứng cần nhanh chóng vuốt sẹ vào bát
trứng để thụ tinh cho trứng. Trứng của mỗi cá cái cần được thụ tinh tối thiểu bởi tinh
1
của 3 cá đực.
Thụ tinh cho trứng
Sử dụng lông vũ khô của gia cầm khuấy nhẹ nhàng, đảo đều trứng với sẹ trước
khi cho 5 - 10 ml nước sạch vào bát trứng. Sau khi cho nước sạch vào tiếp tục khuấy
thêm 1 - 3 phút.
Khử dính cho trứng
Trứng được khử dính bằng dung dịch nước dứa (DDKD). Lượng DDKD thường
gấp 5 - 7 lần khối lượng trứng cần được khử dính.
Ðổ khoảng 1/3 - 1/4 lượng DDKD vào bát trứng đã được thụ tinh khuấy đều cho
trứng tách rời nhau. Sau đó bổ sung số lượng DDKD còn lại, nhẹ nhàng khuấy đều từ
20 - 25 phút tuỳ thuộc vào nhiệt độ không khí tại thời điểm khuấy trứng. Sau 20 - 25
phút kiểm tra độ dính của trứng, nếu trứng không dính lại với nhau là được.
Ấp trứng
Trứng đã khử dính, rửa sạch được ấp trong bình vây có thể tích 300 lít với mật
độ tối đa 40.000 trứng/lít.
Lượng nước qua bình khoảng 4 lít/giây. Trong quá trình ấp trứng cần vệ sinh
mạng tràn thường xuyên, nhất là khi trứng nở.
Ương nuôi cá bột lên cá hương
Cá bột được ương nuôi trong ao với mật độ 100 - 150 cá thể/m
2
. Dùng bột đậu
tương nghiền mịn trong 7 ngày đầu, 7 ngày tiếp theo sử dụng thức ăn dạng bột mịn.
PHÂN HEO
MỘT LOẠI PHÂN BÓN AO CÓ HIỆU QUẢ TRONG

HỆ THỐNG NUÔI GHÉP CÁC LOÀI CÁ CHÉP

Giới thiệu
Nuôi trồng thuỷ sản bền vững là xây dựng hệ thống nuôi gắn với bảo vệ môi
trường sinh thái và có hiệu quả kinh tế. Việc tái sử dụng các chất thải hữu cơ trong
nuôi cá đáp ứng cả hai mục đích là làm sạch môi trường và giảm chí phí để sử dụng
phân hoá học (thông thường chiếm khoảng hơn 50% tổng chi phí). Tuy nhiên, việc sử
dụng tuỳ tiện các loại phân bón trong ao hồ nuôi cá có thể gây ô nhiễm môi trường.
Bởi vậy, người nuôi cần phải biết các tiêu chuẩn sử dụng chất thải này qua các thông
số hoá lý của nước ao hồ để đảm bảo tỷ lệ sống và tăng trưởng cao của cá
Nguyên liệu và các phương pháp tiến hành nghiên cứu
2
Trọng lượng cá lần cuối - Trọng lượng cá ban đầu
TWG =
Trọng lượng cá ban đầu
Nghiên cứu được tiến hành tại trại nuôi cá của đại học Nông nghiệp Punjab,
Ludhiana trong thời gian 270 ngày (từ tháng 9/1997 đến 6/1998). Phân lợn đã được
sử dụng trong nuôi ghép các loài thuộc họ cá chép như một nguồn phân bón tốt với
mức 18T/ha/năm và 36 T/ha/năm cho một đợt nuôi khoảng 270 ngày mà không cần
cho ăn thức ăn bổ sung. Quan sát cho thấy phân lợn không làm biến đổi các thông số
hoá sinh của nước như độ pH, mức ôxy hoà tan và độ kiềm. Hàm lượng các chất dinh
dưỡng trong nước (photphat và nitrat) trong các ao hồ được bón phân lợn cao hơn các
ao đối chứng (không bón phân, chỉ cho ăn bổ sung). Ngoài ra, mật độ phù du sinh vật
cũng cao hơn đáng kể.
Tốc độ tăng trưởng của cá Catla, cá trôi ấn Ðộ cũng cao hơn rõ rệt. Cá Mrigal
và cá chép thường trong ao được bón phân ở mức 18 tấn/ha/năm cũng lớn nhanh,
nhưng cá trắm cỏ lại lớn nhanh hơn trong ao nuôi đối chứng với ao có bón phân.
Chuẩn bị bể: Thí nghiệm được thực hiện với bể xi măng diện tích 20m
2
, độ sâu 1m.

Dưới đáy các bể có một lớp đất mỏng. Tất cả các bể được lắp đặt đường ống cấp
nước và thải nước.
Bón phân cho bể: Phân lợn được sử dụng ở mức 18 (PM18) và 36 (PM36) t/ha/năm,
tương ứng với mức 34,5 và 69,0 g/m
2
/tuần trong suốt quá trình thử nghiệm. Cá được
nuôi theo hai cách. Cách thứ nhất là cho ăn đối chứng, không bón phân vào ao và cá
được cho ăn thêm thức ăn chứa 50% cám gạo và 50% bánh dầu mù tạc đã khử dầu ở
mức chiếm 2% sinh khối cá. Cả hai phương pháp bón phân và đối chứng được tiến
hành 3 lần.
Thả giống: Mỗi bể nuôi thả các loài cá bột khác nhau (2 con/m
2
): số cá thả gồm 8 cá
Catla (Catla catla), 10 cá trôi ấn (Labeo rohita), 8 Mrigal (Cirrhinus cirrhosus), 8 cá
chép thường (Cyprinus carpio) và 6 cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idellus) vào tháng
9 năm 1997. Trọng lượng của các loài cá tại thời điểm thả giống là cá Catla: 3,5-5,0
g; cá trôi ấn: 5,0-12.0 g; cá Mrigal: 2,5-3.0 g; cá chép: 2,0-2,7 g và cá trắm cỏ: 2,2-
2,7 g.
Quan sát số liệu: Hằng tháng nước trong bể được
phân tích vào khoảng 7-8 giờ sáng để đo các thông số
lý hoá gồm: nhiệt độ, độ pH, CO
2
tự do, kiềm
phenolphtalein, kiềm methyl da cam và các loại kiềm,
lượng photphat hoà tan trong nước và nitrat-nitơ.
Hằng tháng cũng tiến hành phân tích số lượng và chất
lượng phù du thực vật và phù du động vật. Mẫu cá được theo dõi hằng tháng, ghi lại
tốc độ tăng trưởng và ước tính tổng trọng lượng (TWG) và tỉ lệ tăng trưởng đặc biệt
(SGR) theo công thức:
3

ln (Trọng lượng cá lần cuối)
In (Trọng lượng cá ban đầu)
SGR = x 100
Số ngày nuôi
(ln : lôgarit tự nhiên)

Thảo luận
Trong 270 ngày nuôi, nhiệt độ nước dao động từ 12 đến 35
o
C. Sự biến động
của các thông số lý - hoá của nước tại các ao nuôi khác nhau thể hiện trong bảng sau:

Các thông số
Các hình thức ao nuôi
Ao đối chứng Ao bón phân
lợn ở mức 18
T/ha/năm
Ao bón phân lợn
ở mức 36
T/ha/năm
Nhiệt độ (
o
C) 23.30 2.39
a
(13-35)
22.80 2.36
a
(12-35)
22.80 2.38
a

(12-35)
pH 8.61 0.13
a
(8.10-9.20)
8.61 0.14
a
(8.03-9.24)
8.47 0.11
a
(8.13-8.94)
Mức ôxy hoà tan (mg/l) 9.28 0.74
a
(6.25-13.50)
9.97 0.80
a
(6.25-14.00)
9.70 0.80
a
(6.25-13.60)
Mức CO2 tự do (mg/l) 16.40 16.40
a
(0-164)
4.00 4.00
a
(0-40)
10.60 5.49
a
(0-42)
Ðộ kiềm
phenolphthalein

(mg/l)
78.30 8.92
a
(0-98)
79.10 10.16
a
(0-120)
59.80 13.36
a
(0-100)
Ðộ kiềm metyl- da cam
(mg/l)
201.00 15.56
a
(136-268)
187.80 15.32
a
(128-264)
177.70 17.54
a
(100-265)
Tổng độ kiềm (mg/l) 279.30 19.32
a
(156-350)
266.90 19.98
a
(144-331)
237.60 22.15
a
(140-347)

Nitrat- nitơ (mg/l) 1.32 0.22
a
(0.44-2.45)
1.06 0.18
a
(0.70-2.45)
1.18 0.17
a
(0.60-2.45)
Lượng photphat hoà tan
(mg/l)
1.31 0.31
a
(0.07-2.65)
1.59 0.68
a
(0.81-3.63)
3.57 0.95
a
(0.94-9.38)
4
Các thông số lý hoá cuả nước đóng vai trò đặc biệt trong sinh học và sinh lý
cá. Trong nghiên cứu này, các thông số lý hoá của nước trong cả hai hình
thức nuôi đều duy trì trong khoảng cho phép đáp ứng yêu cầu nuôi. Sự khác
nhau giữa các thông số lý hóa ở hai phương pháp nuôi này là không lớn.
Ðiều này gợi ý rằng nếu bón một lượng phân lợn lớn hơn (36 T/ha/năm)
cũng không có ảnh hưởng xấu tới các thông số lý hoá của nước. Thậm chí
trong trường hợp có một lượng chất hữu cơ đáng kể chiết ra từ phân lợn
cũng không làm giảm nồng độ ôxy hoà tan trong nước. Nồng độ nitrat-nitơ
trong nước không khác nhau đáng kể giữa các phương pháp nuôi. Tuy nhiên,

lượng photphat hòa tan trong nước ở phương pháp nuôi có bón phân cao hơn
trong phương pháp nuôi cho ăn thêm. Ðiều này có lẽ là do sự có mặt của
photphat trong phân lợn.
Ngoài ra, lượng thực vật nổi trong ao PM36 là cao nhất, tiếp đó là ao
PM18 và cuối cùng là ao đối chứng, nhưng sự khác biệt không nhiều lắm.
Năng suất sinh học của bất kỳ cơ thể thuỷ sinh nào cũng được đánh
giá chung qua chất lượng và số lượng của sinh vật phù du vốn là thức ăn tự
nhiên của cá. Chất thải động vật làm tăng khả năng sinh học của ao hồ qua
các cách khác nhau dẫn tới sự tăng sản lượng cá. Trong nghiên cứu này, các
thông số sinh học của nước bao gồm các sinh vật phù du và các nhóm tảo
lam và tảo lục (riêng tảo Silic ít hơn nhiều trong ao có bón phân) và lượng
phù du động vật trong ao bón phân lợn cao hơn nhiều trong ao đối chứng.
Ðiều này có thể do lượng photphat có trong phân lợn hoà tan trong nước cao
hơn. Tuy nhiên, không có sự khác biệt lớn về sức sản xuất của ao hồ giữa
hai mức bón phân lợn. Sức sản xuất của phù du sinh vật trong các hồ tái sử
dụng phân lợn cao góp phần tạo năng suất của ao tiếp tục cao trong một thời
gian dài. Phân lợn cung cấp cho phù du động vật nguồn thức ăn bổ sung từ
vi khuẩn có từ nguồn phân hữu cơ. Thành phần của phân lợn ảnh hưởng tới
cấu trúc quần thể sinh vật phù du, trong số thực vật phù du, tảo lam là nhóm
chiếm ưu thế, tiếp theo là tảo lục, còn tảo silic có rất ít. Trong số phù du
động vật, luân trùng là nhóm nhiều nhất, theo sau là lớp phụ chân chèo và
lớp râu ngành ở tất cả các loại hình nuôi.
Mức tăng trưởng của các loài cá nuôi khác nhau như sau: Ðối với cá Catla
và cá trôi ấn, mức TWG, SGR ở ao sử dụng phân lợn PM18 và PM36 cao
hơn nhiều so với nuôi trong ao đối chứng. Trong khi đó đối với cá Mrigal
(Cirrhinus cirrhosus) và cá chép thường (Cyprinus carpio) mức TWG và
SGR trong ao đối chứng lại cao hơn nhiều và ao PM18 cao hơn ao PM36.
Sức tăng trưởng cao của các loại cá chép này trong ao bón phân lợn có thể là
do trong các ao này có nhiều nguồn thức ăn hơn. Ngoài ra, một vài loại cá
chép thậm chí còn nuốt thẳng các mảnh không tiêu hoá được có lẫn trong

các loại phân bón. Các mảnh thức ăn này tuy có giá trị dinh dưỡng thấp
nhưng các vi sinh vật bám vào chúng lại có lượng protein cao. Hơn nữa, việc
cho ăn trực tiếp phân lợn có thể làm cho cá chép tăng trưởng mạnh hơn vì
hơn 70% lượng thức ăn của lợn vẫn chưa được tiêu hoá và giàu dinh dưỡng.
Tuy nhiên, phân lợn ở cả hai mức sử dụng trong nghiên cứu này lại không
có kết quả tốt như dự kiến đối với sự tăng trưởng của cá trắm cỏ vì chúng là
loại ăn cỏ ă
Naga, The ICLARM Quaterly (Vol.25, no.1) January- March 2002
KỸ THUẬT CHO CÁ CHÉP ĐẺ TỰ NHIÊN TRONG
AO
Cá chép thuần chủng có thể tự sinh
sản được trong ao. Tuy vậy, ở nhiều nơi,
do cá trong ao bị lai tạp và thoái hoá, ảnh
hưởng đến năng suất và sản lượng cá
nuôi. Trong bài này sẽ giới thiệu cách
cho cá chép đẻ tự nhiên theo phương
pháp đơn giản để các hộ gia đình có thể
chủ động sản xuất được con giống chất
lượng cao, đúng thời vụ.
1. Mùa vụ cho đẻ:
Mùa đẻ chính của cá chép là mùa xuân và mùa thu. Trong thời gian
này, vào những ngày mưa rào, có thể nhìn thấy từng đàn cá chép vật đẻ.
Theo từng nhóm, cứ 2 - 3 con đực kèm sát 1 con cái, bơi lội ven bờ sông
hoặc đầm ao, nơi có nhiều cây cỏ, rong, bèo để làm chỗ dựa vật đẻ. Các con
đực tranh nhau đến cọ thân mình vào con cái. Cá cái được kích thích sinh
dục uốn mình vật vã làm cho trứng phọt ra ngoài. Vỏ trứng cá chép có chất
dính nên bám vào cỏ cây, rong, bèo. Ðồng thời lúc đó, cá đực phun ngay
tinh dịch, tinh trùng bơi trong nước gặp trứng làm cho trứng thụ tinh. Dựa
vào tập tính sinh đẻ của cá chép trong tự nhiên, người ta đã nghiên cứu cho
cá chép đẻ theo ý muốn bằng cách tạo ra những hoàn cảnh thuận lợi tương

tự.
Yêu cầu của phương pháp cho cá chép đẻ tự nhiên: Vào đầu mùa xuân
phải tuyển chọn trong ao nuôi vỗ cá chép bố mẹ những cá đạt tiêu chuẩn
sau:
- Cá bố mẹ phải béo khoẻ, toàn thân trơn bóng, không rách vây, không
trớt vảy, không bệnh. Có đủ cá đực và cá cái.
- Trứng cá phải căng tròn và rời. Sẹ cá phải trắng và đặc (vuốt xuôi
hai bên bụng cá, thấy sẹ
trắng chảy ra như sữa).
Thời vụ cho cá chép đẻ tốt nhất vào mùa xuân. Trứng cá vụ xuân
thường nhiều và tốt, nên nhân dân thường cho cá chép đẻ vào vụ xuân là
chính (vụ thu chỉ tranh thủ cho đẻ những cá tái phát dục).
Những trạm trại cá giống thường ít quan tâm đến kế hoạch sản xuất cá
chép giống, vì sản xuất vài chục triệu cá bột mè, trôi, trắm không khó, nhưng
để sản xuất vài triệu cá chép bột trong một vụ lại không dễ, vì số lượng
trứng của cá chép ít, phải nuôi vỗ một lượng khá lớn cá bố mẹ, gây tốn kém
và mất nhiều diện tích ao. Vì thế, các hộ gia đình nuôi cá ở địa phương nên
nắm vững kỹ thuật cho cá chép đẻ tự nhiên để chủ động sản xuất giống cá
nuôi.
2. Cho cá đẻ tự nhiên:
* Chọn thời tiết thích hợp:
Nhiệt độ cho cá chép đẻ thích hợp nhất từ 18- 25oC. Trời lạnh dưới
18oC cá chép không đẻ. Trước khi cho cá đẻ, phải nghe dự báo thời tiết để
tránh những đợt có gió mùa đông bắc sắp tràn về. Tốt nhất là những ngày
đầu xuân, hôm nào trời ấm áp, đêm nằm chỉ đắp chăn đơn, bên ngoài ếch
nhái kêu inh ỏi là hôm ấy cho cá chép đẻ tốt.
* Tuyển chọn cá cho đẻ:
Trước khi cho cá đẻ phải kiểm tra cá bố mẹ. Nếu thấy cá có hiện
tượng nhô vây, hở đuôi, hay lượn sát ven bờ là trứng, sẹ của cá đã già, cá đã
muốn đẻ. Ta bắt vài con lên để kiểm tra cho chính xác. Cách kiểm tra như

sau:
Con cái: Khi sắp đẻ, bụng to kềnh, lật ngửa cá lên thấy giữa bụng có
một ngấn hằn lõm vào kéo dài từ vây ngực đến tận hậu môn (dọc theo giữa
hai buồng trứng). Sờ bụng thấy mềm nhũn, da bụng mỏng, nhất là phía cuối.
Lỗ sinh dục đỏ thẫm và hơi lồi. Nếu vuốt nhẹ vào thành bụng, trứng sẽ chảy
ra, màu vàng sẫm, trong suốt và rời thành từng cái là trứng đã già. Những cá
này có thể cho đẻ ngay đợt đầu.
Kinh nghiệm ở một số cơ sở cho cá chép đẻ cho biết: Những con cá
cái bụng to quá mức bình thường, bành ra như bụng cóc, sờ vào thấy mềm
nhão thường rất khó đẻ (cá đã thoái hoá). Ngược lại, những con cá cái khi
vuốt thấy trứng màu vàng đục hoặc vàng xanh dính vào nhau từng chùm là
trứng còn non.
Cá đực: Lúc sắp phóng tinh trùng, nếu vuốt nhẹ hoặc cầm mạnh cá,
tinh dịch cũng chảy ra, có màu trắng như nước vo gạo và đặc sền sệt như sữa
hộp. Trường hợp tinh dịch còn loãng, tuy vẫn có màu trắng nhưng không
đặc quánh là sẹ còn non.
3. Chọn nơi cho cá đẻ:
* Chọn ao cho cá đẻ: Diện tích ao rộng hay hẹp tuỳ theo số lượng cá cho đẻ
nhiều hay ít. Chọn ao có đáy trơ, tốt nhất là cát pha sét. Nguồn nước đưa vào
ao phải sạch, không chua mặn, không ô nhiễm. Ao được tẩy dọn kỹ, có mức
nước sâu khoảng 1m. Có thể dùng bể đẻ cá mè, trôi, trắm, bể ấp hoặc bể
chứa nước để cho cá chép đẻ.
* Chọn ruộng cho cá chép đẻ: Nhiều nơi ở miền núi phía Bắc đã có tập quán
cho cá chép đẻ tự nhiên ngoài ruộng. Ruộng cho cá chép đẻ thường có diện
tích 150- 200m2, đáy đất pha cát, có thể lấy nước vào dễ dàng và luôn giữ
được nước. Ruộng cho cá chép đẻ phải được cày bừa san phẳng và phơi
nắng mấy ngày cho se cứng đáy (không được nứt nẻ). Bờ ruộng đắp cao hơn
mức nước, cao nhất khoảng 50 - 60cm, có máng dẫn nước và cống tiêu nước
thuận tiện. Cửa cống dẫn nước phải chắn phên để ngăn cá tạp theo vào
ruộng. Trước khi cho cá đẻ, tháo nước vào ruộng sâu khoảng 40 - 50cm.

Nếu ruộng đó còn dùng để ương trứng, nên đào sẵn ở góc ruộng một cái hố
khoảng 4m2, sâu 0,6m và có xẻ mương sâu 0,2m làm đường cho cá đi lại lên
xuống kiếm ăn. Mặt hố có che lá cọ hoặc làm giàn trồng mướp, bầu, bí để
che nắng cho cá.
4. Chuẩn bị ổ đẻ:
Thường chọn các loại xơ mềm có nhiều lông tơ nhỏ để làm ổ cho cá
chép đẻ trứng cá dễ bám, như: bèo tây, xơ dừa, sợi nilông. Phổ biến nhất là
dùng bèo tây, nếu dùng bèo phải chọn loại rễ bánh tẻ. Bỏ hết rễ bèo thối, rửa
sạch đất, cặn bám ở rễ và sát trùng bằng nước muối 5% (0,5kg muối ăn pha
trong 10 lít nước) hoặc xanh malachit nồng độ 3mg/lít ngâm 15 phút rồi vớt
ra thả vào ổ đẻ. Dùng cây nứa quây bèo thành khung hình chữ nhật, để khi
cá vật đẻ không làm bèo tản mát. Kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu
Nuôi trồng thuỷ sản I cho thấy: Số lượng trứng của mỗi cá mẹ tỷ lệ thuận
với khối lượng cá. Cá nặng 1kg thường đẻ 120.000 - 140.000 trứng; cá nặng
1,5kg đẻ 180.000 - 210.000 trứng. Tỷ lệ trứng nở thành cá bột thường đạt
30- 40% (100 trứng nở được 30 - 40 con cá bột). Một khung bèo rộng 1m2
thường có khoảng 180 cây bèo. Mỗi cây bèo thường có 700 trứng bám, vậy
cứ 1 con cá cái cỡ 1kg cho đẻ cần 1m2 khung bèo. Bèo thả kín vào khung,
khung đặt cách bờ ít nhất 1m ở chỗ nước sâu để khi cá vật đẻ không làm
nước bị đục.
5. Thành lập nhóm cá đẻ:
Sau khi kiểm tra cá thấy trứng, sẹ đạt yêu cầu cho đẻ, chuẩn bị xong
ao và ổ cho cá đẻ, nếu thời tiết thuận lợi thì bắt cá cho vào nơi vật đẻ. Trước
khi cho cá đẻ, cần xác định tỷ lệ đực cái thích hợp, để lượng tinh dịch đủ
đảm bảo cho số trứng đẻ ra được thụ tinh hoàn toàn. Cá chép thụ tinh ngoài,
tinh dịch của cá đực phóng vào nước bị pha loãng, nếu ít tinh dịch sẽ không
đảm bảo cho tinh trùng gặp được trứng để thụ tinh. Trong điều kiện nuôi vỗ
tốt có thể ghép 1 cá cái + 2 cá đực, cũng có nơi ghép 2 cá cái + 3 cá đực, tỷ
lệ trứng thụ tinh vẫn cao. Khi ghép cá đực vào nhóm đẻ nên xen kẽ giữa con
to và con nhỏ để tăng cường kích thích khi cá vật đẻ, tỷ lệ trứng rơi vãi ít

hơn vì bèo không đảo lộn và nước không bị xoáy nhiều như khi dùng toàn
bộ cá đực to.
Cho cá chép đẻ tự nhiên cần lưu ý:
- Trước khi cho cá đẻ, phải kiểm tra lại ao, ruộng - nơi cho cá đẻ, xem
nguồn nước chảy vào có sạch không, mức nước đủ chưa. Nếu đạt yêu cầu sẽ
thả ổ bèo xuống. Theo dõi thời tiết để thả cá bố mẹ đúng lúc. Nếu gặp gió
mùa đông bắc, trời rét đột ngột nên tạm ngừng việc thả cá. Thời tiết ấm áp,
nhiệt độ nước đạt 18 - 250C mới tiếp tục cho cá đẻ. Khi thả, nên thả cá cái
vào buổi sáng, thả cá đực vào buổi chiều cùng ngày. Nếu thời tiết thuận lợi,
cá có thể đẻ từ 3 - 4 giờ tới 7 - 8 giờ sáng.
- Nếu 5 giờ sáng chưa thấy cá vật đẻ phải bơm nước vào ao hay ruộng
(nếu dùng vòi phun làm mưa nhân tạo càng tốt). Thời gian bơm nước 1 - 2
giờ. Có nước mới, cá được kích thích và đẻ. Cá có thể đẻ 2 đêm liên tục. Khi
trứng bám vừa phải thì thay ổ mới. Nếu để 2 đêm liền cá vẫn không đẻ, phải
bắt cá trở lại ao nuôi vỗ tiếp, khoảng 20 - 30 ngày sau lại cho đẻ.
- Thời gian từ khi cá đẻ đến khi kết thúc thường kéo dài 2 ngày liền và
thường đẻ mạnh vào ngày đầu.
Có thể tính số trứng cá đẻ tự nhiên một cách tương đối bằng công thức
sau:
Số trứng đẻ được = (P- P' x 60.000).
Trong đó: P là khối lượng tổng số cá cái trước khi đẻ
P là khối lượng tổng số cá cái sau khi đẻ.
Có thể ước tính số cá bột thu được bằng 30- 40% số trứng, để quyết định
diện tích trứng ương thành cá bột.
(Phạm Văn Trang)
(Viện nghiên cứu NTTS I)

×