LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
PHÂN TÍCH CHỨNG MINH SỰ RA ĐỜI CỦA ĐCSVN LÀ SẢN PHẨM CỦA SỰ
KẾT HỢP CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỚI PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VÀ
PHONG TRÀO YÊU NƯỚC
I. Hoàn cảnh lịch sử:
Đầu thế kỷ XX các nước đế quốc lớn như Anh, Mỹ, Pháp đã xâm chiếm hầu hết các nước
nhỏ yếu trên thế giới và biến thành thuộc địa của họ, thực thi chính sách thực dân tàn bạo của chủ
nghĩa đế quốc đối với các thuộc địa.
Các nước thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc giành độc lập trở thành một nội dung
lớn của phong trào cách mạng thế giới.
Cuộc cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới. Cuộc
cách mạng đó đã chặt đứt một khâu yếu nhất trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa và các hệ thống
thuộc địa, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người- thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng tháng 10 cũng đã cổ vũ mạnh mẽ các dân
tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng loài người.
Ở Châu Á, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ đặc biệt là Trung quốc. Quãng
Châu được coi như là cái nôi của cách mạng Châu Á lúc bấy giờ.
Ở việt nam, tháng 6/1884 triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp định Patơnot thừa nhận sự
thống trị của thực dân Pháp.
Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt nam có nhiều thay
đổi.
Về chính trị:thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế điển hình, đàn áp đẩm máu các
phong trào yêu nước của người Việt nam, mọi quyền tự do bị cấm. Pháp xây dựng hệ thống chính
quyền thuộc địa, đồng thời vẫn duy trì chính quyền phong kiến tay sai làm chỗ dựa. Thực dân
Pháp thi hành chính sách chia để trị, chia rẽ ba nước đông dương, xóa tên các nước Việt nam,
Lào, Campuchia trên bản đồ chính trị thế giới. lập ra xứ đông dương thuộc Pháp. Ở Việt nam
Pháp còn chia rẽ giữa ba kỳ, Nam kỳ,Trung kỳ, Bắc kỳ.
Về văn hóa: Thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân. Họ bưng bít ngăn cản ảnh
hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, kể cả văn hóa tiến bộ Pháp, xuyên tạc lịch sử và
giá trị văn hóa Việt nam, dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc người Việt nam.
Về kinh tế: Thực dân Pháp ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động rẽ mạt của
người bản xứ, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý. Đặc biệt thực dân Pháp đã
tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ1(1897-1914) và lần 2 (1919-1929), dẫn đến những
biến đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội ở Việt nam.
Cơ cấu kinh tế: Đã ra đời những ngành kinh tế công nghiệp, khai thác mỏ, giao
thông vận tải, thương nghiệp, kinh tế đồn điền.
Về cơ cấu xã hội: giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hóa, giai cấp công nhân và tư
sản Việt nam ra đời.
Từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp thì giai cấp địa chủ phong
kiến có sự phân hóa. Một bộ phận cam tâm bán nước, làm tay sai cho Pháp. Một bộ phận
khác nêu cao truyền thống và tinh thần dân tộc khởi xướng và lãnh đạo các phong trào yêu
nước chống Pháp để giành độc lập dân tộc và bảo vệ chế độ phong kiến.
Giai cấp nông dân là lực lượng to lớn trong dân cư, họ hăng hái chống đế quốc và
phong kiến, khao khát độc lập và ruộng đất. Tầng lớp trí thức tiểu tư sản có tinh thần dân
tộc, yêu nước rất nhạy cảm về chính trị và thời cuộc.
1
1
Giai cấp tư sản Việt nam ra đời sau chiến tranh thế giới thứ 1 với hai bộ phận.
Một bộ phận gắn liền lợi ích với tư bản Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh
tế của thực dân Pháp, trở thành tầng lớp tư sản mại bản. Một bộ phận là giai cấp tư sản dân
tộc, mâu thuẩn với tư bản Pháp và triều đình phong kiến, nhưng thế lực kinh tế yếu ớt, phụ
thuộc, do vậy chính trị là cải lương.
Giai cấp công nhân Việt nam ra đời và phát triển trong quá trình thực dân Pháp thực
hiện các cuộc khai thác thuộc địa. Đến trước chiến tranh thế giới thứ 1 đã có khoãng 6 vạn
công nhân. Số lượng công nhân tăng nhanh trong những năm Pháp tiến hành cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ 2, đến cuối năm 1929 số công nhân Việt nam là hơn 22 vạn người.
Giai cấp công nhân Việt nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, không chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa Công đoàn, chủ nghĩa cải lương, tuy lực lượng còn ít, trình độ văn
hóa, kỷ thuật, công nghệ còn thấp nhưng giai cấp công nhân Việt nam thực sự đại biểu cho
lực lượng sản xuất hiện đại, một giai cấp tập trung, có ý thức kỷ luật và ý chí cách mạng,
có tinh thần quốc tế vô sản.
II. Quy luật ra đời của Đảng cộng sản Việt nam.
1. Phong trào yêu nước: Từ khi thực dân Pháp xâm lược đến những năm 20 của thế
kỷ XX, đã có hàng trăm cuộc đấu tranh anh dũng của dân tộc ta chống kẻ thù xâm lược,
nhưng đều lần lượt thất bại.
Phong trào chống thực dân Pháp theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần
vương đã thất bại khi cuộc khởi nghĩa của Phan đình Phùng chấm dứt năm 1896. Phong
trào nông dân Yên thế của Hoàng hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng
lợi.
Đầu thế kỷ XX, trào lưu dân chủ tư sản phương Tây cũng xâm nhập vào nước ta.
Con đường cải cách Minh trị của Nhật bản cũng như tư tưởng cải cách và cách mạng Tân
Hợi của Trung quốc đều ít nhiều có ảnh hưởng đến phong trào yêu nước của Việt nam, lôi
cuốn nhiều sỷ phu phong kiến, tiêu biểu là Phan bội Châu và Phan chu Trinh.
Phan Bội Châu, lúc đầu chủ trương xây dựng chế độ quân chủ lập hiến như Nhật
Bản. Năm 1912 ông lập ra Việt nam quang phục hội, từ bỏ lập trường quân chủ lập hiến
chuyển sang lập trường dân chủ tư sản đại Pháp, thành lập Cộng hòa dân quốc Việt nam,
cải tổ Việt nam quang phục hội thành Việt nam Quốc dân đảng theo con đường của Tôn
dật Tiên nhưng cả hai hướng đi đó đều thất bại.
Phan chu Trinh cũng là một nhà yêu nước nhiệt thành, ông lên án gay gắt tội ác của
thực dân Pháp, quan lại phong kiến sâu mọt, chủ trương cải cách đát nước nhưng lại muốn
dựa vào Pháp để chống phong kiến chẳng khác gì "xin giặc rũ lòng thương".
Cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt nam Quốc dân đảng với khẩu hiệu "không thành
công cũng thành nhân" đã nhanh chóng thất bại, chứng tỏ sự hăng hái bồng bột nhất thời
của tầng lớp tiểu tư sản.
Phong trào yêu nước của nhân dân ta diễn ra rất sôi nổi và liên tục, nhưng thiếu
đường lối và sự lãnh đạo đúng đắn. Trên thực tế, các phong trào cứu nước từ lập trường
Cần vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất
bại. Tình hình đó đòi hỏi phải có đường lối cách mạng đúng đắn và một tổ chức cách mạng
có khả năng đưa phong trào cách mạng đến thắng lợi.
2. Nguyễn Ái Quốc và công việc chuẩn bị thành lập Đảng.
Nguyễn Ái Quốc,khi đi học tên là Nguyễn Tất Thành, lớn lên trong cảnh mất nước,
đồng bào bị đọa đày đau khổ, người thanh niên giàu lòng yêu nước đó đã sớm có ý chí
đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Năm 1911, Nguyễn ái Quốc ra đi tìm đường
2
2
cứu nước. Người sang Pháp, đi qua nhiều nước thuộc địa của Pháp ở châu Phi, sang Mỹ,
đến nước Anh tìm hiễu các cuộc đấu tranh của nhiều dân bị áp bức trên thế giới, tìm hiễu
xã hội tư bản, và sau đó trở lại Pháp. Tại đây, người từng bước học tập lý luận, tham gia
Đảng Xã hội Pháp, lập ra Hội những người Việt nam yêu nước.
Cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi. Nguyễn ái Quốc được đọc bản "Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lênin. Luận cương đã giải
đáp cho Nguyễn ái Quốc con đường đấu tranh giành độc lập tự do thật sự cho dân tộc, cho
đồng bào mình.
Năm 1920 Nguyễn ái Quốc tán thành thành lập Đảng cộng sản Pháp và trở thành
một trong những người sáng lập đảng Cộng sản Pháp và cũng là cộng sản đầu tiên của dân
tộc Việt nam.
Từ đầu những năm 20, Nguyễn ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt nam. Những năm 1921-1923, tại Pháp, Người
sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa và ra báo Người cùng khổ. Hoạt động của Hội và tờ báo đã
tích cực truyền bá lý luận vào các nước thuộc địa, trong đó có Việt nam.
Năm 1923, Nguyễn ái Quốc sang Liên xô và năm 1924 tham dự Đai hội V của Quốc
tế cộng sản.
Năm 1924 Nguyễn Ái Quốc tới Quãng châu(TQ) người cùng các nhà lãnh đạo cách
mạng Trung quốc,Triều tiên, Ấn độ, Thái lan thành lập liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở
Á - Đông. Tháng 6 năm 1925, Nguyễn ái Quốc thành lập Hội Việt nam cách mạng thanh
niên và ra báo Thanh niên và trong những năm 1925-1927 mở nhiều lớp huấn luyện đào
tạo cán bộ. Đó là sự chuẩn bị tích cực về tổ chức và cán bộ cho việc thành lập Đảng cộng
sản.
Trong các tác phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường cách mệnh, cùng
nhiều công trình, bài báo khác, Người đã nêu lên một cách có hệ thống những quan điểm
của một đường lối cách mạng đúng đắn, chuẩn bị cho cương lĩnh của Đảng.
Với sự soi sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối cứu nước của Nguyễn ái
Quốc, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt nam những năm 20 phát triển
mạnh mẽ. Phong trào công nhân chuyển dần từ tự phát thành tự giác. Sự phát tiển của
phong trào cách mạng đòi hỏi sự ra đời của những tổ chức cộng sản. Tháng 3/1929, chi bộ
cộng sản đầu tiên được thành lập tại Hà nội. Hội Việt nam cách mạng thanh niên, một tổ
chức tiền thân của Đảng, đã có vai trò tích cực thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển
song không còn thích hợp trước sự phát triển về chất của phong trào. Sau đại hội tháng
5/1929 của Hội, các tổ chức cộng sản lần lượt ra đời ở Việt nam.
III. Thành lập Đảng CSVN - Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
1. Sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở Việt nam:
Đến năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng nước ta, tổ
chức Hội VNCMTN không còn thích hợp và đủ sức lãnh đạo phong trào, cần phải thành
lập một Đảng cộng sản Việt nam.
Năm 6/1929 Kỳ bộ Bắc kỳ thành lập Đông dương cộng sản đảng. Tháng 11/1929
tổng bộ và kỳ bộ Nam kỳ của Hội VNCMTN quyết định thành lập An nam cộng sản đảng
và đầu năm 1930 những đại biểu ưu tú của Tân việt cách mạng đảng thành lập Đông dương
cộng sản liên đoàn.
Ba tổ chức cộng sản ra đời cuối năm 1929 và đầu năm 1930 đã khẵng định bước
phát triển quan trọng của phong trào cách mạng Việt nam và ưu thế của hệ tư tưởng cộng
sản trong phong trào dân tộc. Tuy nhiên ở một nước mà có 3 tổ chức cộng sản sẽ không
3
3
tránh khỏi phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành
động. Trách nhiệm lịch sử của những người cộng sản là phải sớm khắc phục chổ yếu đó để
thống nhất phong trào cách mạng ở nước ta.
2. Hội nghị thành lập Đảng và nội dung cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã họp ở bán đảo
Cữu long, Hương cảng (Trung quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn ái Quốc thay
mặt Quốc tế cộng sản.
Hội nghị đã nhất trí thống nhất các nhóm cộng sản thành lập một Đảng, lấy tên là
Đảng cộng sản Việt nam. Hội nghị thông qua Cương lĩnh của Đảng bao gồm Chánh cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Nội dung cơ bản của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng:
Về mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt nam, Cương lĩnh chỉ rõ: "chủ trương
làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Cương
lĩnh của Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách
mạng vô sản chính là làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh nêu rõ những nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể của cách mạng là: " Đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập".
Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh của Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai
cấp, các lực lượng tiến bộ, cá nhân yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Đảng
"phải thu phục cho được đại bộ phận của giai cấp mình Phải thu phục cho được đại bộ
phận dân cày Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức trung nông, thanh
niên để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản
An nam chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung
lập.
Cương lĩnh khẳng định phải dùng bạo lực cách mạng để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và bọn phong kiến.
Cương lĩnh nêu rõ, cách mạng Việt nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách mạng
vô sản thế giới; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng với tư cách là đội tiên phong của giai cấp vô
sản
Những nội dung của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã đặt ra và giải quyết những vấn
đề cơ bản, cấp bách và định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách
mạng Việt nam.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết toàn dân và lãnh
đạo phong trào cách mạng của nhân dân ta, là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa, nữa phong kiến.
Sự kiện thành lập Đảng cộng sản Việt nam là một bước ngoặc quyết định trong sự
phát triển của dân tộc ta, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của
phong trào yêu nước Việt nam đầu thế kỷ XX. Cương lĩnh của đảng đã đoàn kết toàn dân
và lãnh đạo toàn dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp để đi tới chủ nghĩa
xã hội. Đó là sự lụa chọn dứt khoát và đúng đắn của Bác Hồ, của Đảng và nhân dân ta để
có độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Từ thực tiển lịch sử đã chứng minh rằng: Đảng CSVN là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt nam.
4
4
TỪ THỰC TIỂN LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KỲ 1954-1975 PHÂN TÍCH, CHỨNG MINH
LÀM RÕ NHẬN ĐỊNH CỦA ĐẢNG TA TRONG ĐẠI HỘI IV 'THẮNG LỢI CỦA CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC LÀ THẮNG LỢI CỦA HAI CHIẾN LƯỢC CÁCH
MẠNG ĐƯỢC TIẾN HÀNH ĐỒNG THỜI VÀ KẾT HỢP CHẶT CHẼ VỚI NHAU".
Năm 1958 thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt nam. Cuối thế kỷ XIX Pháp áp đặt
chế độ cai trị trực tiếp đồng thời vẫn duy trì chế độ phong kiến làm chỗ dựa cho sự thống
trị của chúng. Việt nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nữa
phong kiến.
Chính sách thống trị về chính trị, nô dich về văn hóa cộng với các chương trình khai thác
thuộc địa đã làm cho sự mâu thuẫn giữa dân tộc việt nam, các tầng lớp nhân dân lao động nước ta
với thực dân Pháp phát triển gay gắt. Các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp liên tục nổ ra
trên cả nước. Sự thất bại của phong trào Cần vương đã chấm dứt thời kỳ đấu tranh chống xâm
lược theo hệ tư tưởng phong kiến. Phong trào nông dân của cụ Hoàng Hoa Thám và phong trào
yêu nước theo tư tưởng dân chủ tư sản của cụ Phan bội Châu, Phan châu Trinh diễn ra sôi nổi
nhưng cuối cùng cũng thất bại.
Trong lúc các phong trào cứu nước bế tắc, năm 1911 người thanh niên yêu nước
Nguyễn ái Quốc(lúc đi học tên là Nguyễn tất Thành) rời tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước
giải phóng dân tộc. Sau khi đã đi nghiên cứu, tìm hiễu các cuộc đấu tranh của nhiều dân
tộc bị áp bức trên thế giới, tìm hiểu xã hội tư bản, người trở lại Pháp. Nguyễn ái Quốc được
đọc bản "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa" của
Lênin và đã tìm thấy trong tư tưởng của Lênin con đường giải phóng đúng đắn và triệt để
cho dân tộc Việt nam. Con đường cứu nước mà Người khẳng định là giải phóng dân tộc
với giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp và con người.
Năm 1930 , dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc Đảng cộng sản Việt nam ra
đời. Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước để
Đảng cộng sản Việt nam ra đời là sản phẩm đầu tiên, là hiện thân quan trọng nhất của sự
kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định rõ mục tiêu chiến lược của cách mạng là
" chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng
sản".
Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Hồ chủ tịch tổng khởi nghĩa tháng tám thành
công và nước Việt nam dân chủ cộng hòa ra đời.
Theo thõa thuận tại Hội nghị Pốt đam ở phía nam vĩ tuyến 16, quân đội thực dân
Anh kéo vào với danh nghiã là giải giáp quân Nhật. Thực dân Pháp đã dựa vào quân Anh
với sự hậu thuẩn của Mỹ để trở lại xâm lược Đông dương.
Ngày 19 tháng 12 năm 1946 thay mặt Đảng và Chính phủ, Hồ chủ tịch đã ra lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi kháng chiến nhân dân Việt nam đã nhất
tề đứng lên. Sau 9 năm kháng chiến anh dũng nhân dân ta đã làm nên một Điên biên chấn
động địa cầu. Hiệp định Geneve về lập lại hòa bình ở Đông dương được ký kết, kết thúc
thắng lợi vẽ vang của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta.
Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền. Miền bắc
được hoàn toàn giải phóng, nhân dân bắt tay vào khôi phục kinh tế, văn hóa, xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Miền Nam tiếp tục sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để hoàn
thành giải phóng dân tộc thống nhất tổ quốc.
5
5
Ở miền Bắc, tiến hành khôi phục kinh tế trọng tâm là kinh tế nông nghiệp, đồng thời
tiến hành cải cách ruộng đất, xóa bỏ quan hệ bóc lột phong kiến, đem lại quyền làm chủ
cho nông dân ở nông thôn.
Sau khi thu đựoc những kết quả quan trọng trong khôi phục kinh tế, Hội nghị trung
ương lần thứ 14 đã vạch ra kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế
văn hóa.
Những năm 1958-1960, nền kinh tế miền Bắc có những chuyển biến đáng kể, văn
hóa, giáo dục, y tế được phát triển, làm thay đổi một bước diện mạo miền Bắc.
Ở miền Nam, Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi chính quyền Sài gòn thi hành
nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ và giữ gìn lực lượng trước sự khủng bố tàn bạo của kẻ
thù. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn ở miền Nam đồng chí Lê Duẩn đã soạn thảo " Đề cương
cách mạng miền Nam". Tháng 1/1959 BCHTW đã ra nghị quyết 15 khẳng định con đường
phát triển cơ bản của cách mạng việt nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về
tay nhân dân.
Năm 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần III của Đảng đã hoàn chỉnh đường lối
cách mạng Việt nam.
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng ở miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp
phần xây dựng một nước Việt nam hòa bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Miền bắc bắt tay vào việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Trong 5 năm từ
1961-1965 miền bắc đạt được nhiều thành tựu quan trọng: quan hệ sản xuất mới tiếp tục
được củng cố, cơ sở vật chất được tăng cường, bước đầu có sự tìm tòi cải tiến cung cách
làm ăn qua các cuộc vận động "ba xây, ba chống" và cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ
thuật. giáo dục, văn hóa, y tế phát triển mạnh mẽ.
Ở miền Nam, chủ trương của Đảng là nâng dần mức độ đấu tranh vũ trang. Dưới
ngọn cờ đoàn kết cứu nước của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam do Đảng lãnh đạo,
phong trào cách mạng miền Nam được giữ vững và phát triển mạnh mẽ, đã đánh bại chiến
lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ. Trước sự phá sản của chiến tranh đặc biệt
buộc đế quốc Mỹ phải chuyển sang " chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và gây chiến tranh
phá hoại ra miền Bắc.
Chủ tịch HCM kêu gọi đồng bào và chiến sỷ cả nước nêu cao ý chí quyết tâm đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược với tinh thần :"Không có gì quý hơn độc lập tự do". Với cuộc tổng
tấn công và nỗi dậy tết Mậu thân 1968 buộc Mỹ xuống thang chiến tranh, chấm dứt ném
bom miền Bắc, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán Paris, tuyên bố "phi Mỹ hóa" chiến
tranh.
Cuối năm 1968, miền Bắc tiến hành khắc phục hậu quả chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ, khôi phục và phát triển một bước nền kinh tế quốc dân để ổn định đời sống nhân
dân và chi viện cho miền Nam.
Sau tổng tiến công năm 1968, cách mạng miền Nam tiếp tục mở các cuộc tiến công
quân sự tạo thế cho đàm phán ở Paris. Thắng lợi trong việc bảo vệ miền Bắc trước cuộc
chiến tranh phá hoại bằng không quân lần thứ hai của Mỹ và đặc biệt là chiến thắng trong
trận Điện biên Phủ trên không trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải
ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt nam vào ngày
27/1/1973.
Sau Hiệp định Paris, miền Bắc tiến hành khôi phục kinh tế nhằm đảm bảo đời sống
của nhân dân miền Bắc và chi viện có hiệu quả về sức người, sức của cho cách mạng miền
6
6
Nam. Ở miền Nam, quân và dân tiếp tục sử dụng bạo lực cách mạng, giữ vững thế tiến
công, đẩy chế độ Sài gòn vào thế bị động lúng túng.
Cuộc tổng tiến công nỗi dậy mùa xuân 1975 được mở đầu bằng chiến thắng Buôn
ma thuộc và kết thúc bằng chiến dich Hồ chí Minh lịch sử. Ngày 30/4/1975 Sài gòn được
giải phóng.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, kết thúc 30 năm chiến tranh giải
phóng dân tộc, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực
dân trên đất nước ta, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước,
bảo vệ và phát triển những thành tựu của cách mạng XHCN ở miền Bắc, hoàn thành thống
nhất đất nước.
Đó là thắng lợi của sự kết hợp tài tình của Đảng trong việc lãnh đạo thực hiện hai
chiến lược cách mạng độc lập dân tộc và chũ nghĩa xã hội mà Cương lĩnh cách mạng đầu
tiên của Đảng đã xác định.
Đặc biệt giai đoạn 1954-1975 là giai đoạn mà cách mạng Việt nam đang đứng trước
tình thế thử thách gay go chưa từng có. Đất nước tạm thời chia làm hai miền với hai chế độ
chính trị khác nhau. Kẻ thù trực tiếp của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là đế quốc Mỹ
và tay sai. Đây không chỉ là kẻ thù của nhân dân Việt nam mà còn là kẻ thù của nhân dân
thế giới. Cuộc chiến đấu trong tình thế so sánh lực lượng chênh lệch nhau quá xa nầy
không ai hình dung nỗi Việt nam dám trực tiếp đương đầu và chiến thắng.
Đây là cuộc đọ sức giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa đế quốc
hiện đại, là cuộc đọ sức có quan hệ chặt chẽ đến đời sống chính trị toàn thế giới trong điều
kiện có sự tác động tiêu cực của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại trong phong trào cộng
sản quốc tế.
Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên trì kết hợp chủ nghĩa yêu
nước Việt nam với chủ nghĩa Mác-Lênin, vượt lên sức ép của tất cả những quan điểm sai
lầm và phản động, phát huy năng lực tư duy độc lập và sáng tạo, Đảng ta đã xác định thành
công đường lối chung của cách mạng cả nước, cách mạng của mỗi miền.
Tuy xác định chiến lược cách mạng của mỗi miền khác nhau, nhưng miền nào cũng
bao gồm hai mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội kết hợp với nhau.
Ở miền Nam mục tiêu độc lập dân tộc được thể hiện trực tiếp và nóng bỏng, mục
tiêu chủ nghĩa xã hội cũng là định hướng, là lý tưởng nhưng không thuần túy ở dạng tư
tưởng, chính trị như giai đoạn cách mạng trước. Vì đã có miền bắc xã hội chủ nghĩa tác
động trực tiếp với toàn bộ sức mạnh vật chất và tinh thần đang được tạo ra. Cho nên miền
Nam chiến đấu còn để bảo vệ chế độ XHCN ở miền Bắc. Sức mạnh của miền Nam là sức
mạnh kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của cả nước, sức mạnh ấy lớn hơn nhiều
so với thời kỳ chống Pháp.
Ở miền Bắc mục tiêu CNXH trở thành trực tiếp từ năm 1954, mục tiêu độc lập dân
tộc được đặt ra dưới dạng vừa chiến đấu bảo vệ miền Bắc, vừa dốc sức chi viện miền Nam.
Sự kết hợp các mục tiêu nầy là động lực lớn thúc đẩy miền Bắc xây dựng CNXH.
Trên toàn bộ quốc gia dân tộc thì chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu, mục
tiêu độc lập dân tộc là bức xúc, mục tiêu chủ nghĩa xã hội vừa là hiện thực ở miền Bắc,
nhưng trước hết là phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc. Cách mạng ở hai miền phải đồng
thời đẩy mạnh và quan hệ khắng khít với nhau, trong đó vị trí mỗi miền được xác định là
phương thức kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội sinh động nhất của thời đại.
Mục tiêu cách mạng Việt nam là hòa bình, thống nhất độc lập dân chủ và chủ nghĩa xã hội
hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của thời đại là hòa bình độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy,
7
7
cuộc kháng chiến của nhân dân Việt nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai không chỉ vì lợi
ích của dân tộc mình, mà còn góp phần tích cực bảo vệ hòa bình trên thế giới. Việt nam trở thành
lương tâm của thời đại, ngọn cờ đầu của nhân đạo và chính nghĩa.
Yếu tố giai cấp, dân tộc, quốc tế lúc nầy kết hợp với nhau chặt chẽ, phong phú, nâng
lên trình độ và quy mô mới. Nhờ đó, Việt nam có đủ sức mạnh đánh thắng tên đế quốc
khổng lồ tạo nên huyền thoại của thế kỷ XX.
Thắng lợi của thời kỳ nầy thể hiện rõ nhận thức và thực hiện mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, giải quyết quan hệ dân tộc và giai cấp của Đảng ta đã nâng lên nấc
thang mới. Kiên trì kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phức tạp và
cực kỳ khó khăn, Đảng ta đã giải quyết thành công trên tất cả các lĩnh vực của cách mạng
Việt nam, từ nhận thức lý luận, tư tưởng đến xác định đường lối chính trị và tổ chức thực
hiện đường lối. Có thể nói đây là thời kỳ trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong bảo vệ
và phát triển lý luận cách mạng. Điểm tựa của sự nhảy vọt ấy là luôn giữ vững mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy, nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV đã khẳng định" Thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là thắng lợi của hai chiến lược cách mạng được tiến
hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ với nhau". Đây không chỉ là bài học kinh nghiệm cho
thời kỳ chống Mỹ cứu nước giai đoạn 1954 - 1975 mà bài học kinh nghiệm nầy vẫn còn có
giá trị trong công cuộc đổi mới của cách mạng Việt nam hiện nay.
8
8
TỪ LỊCH SỬ CÁCH MẠNG NƯỚC TA TRONG 75 NĂM QUA, PHÂN TÍCH LÀM RÕ: ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ ĐẢNG CÓ BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ VỮNG VÀNG, TÍNH KIÊN
ĐỊNH CÁCH MẠNG,TINH THẦN ĐỘC LẬP SÁNG TẠO VƯỢT MỌI KHÓ KHĂN THỬ
THÁCH.
Những năm đầu thế kỷ XX, giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối
cũ, thì người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành( Nguyễn ái Quốc) đã ra đi tìm đường
cứu nước theo phương hướng mới. Khác với con đường của những người đương thời, cũng
không giống con đường duy tân của một số nước trong khu vực Người hướng sang
phương Tây và bằng đôi tay lao động, thể hiện tinh thần độc lập tự chủ của mình.
Đảng cộng sản Việt nam ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước. Khác với sự ra đời của nhiều Đảng cộng sản ở các
nước tư bản, từ trong bản thân ra đời của Đảng ta đã có sự kết hợp chặt chẽ yếu tố giai cấp
và dân tộc, tiêu biểu cho lợi ích, nguyện vọng của giai cấp và dân tộc, gắn dân tộc với thời
đại.
Bản lĩnh chính trị, độc lập, tự chủ, sáng tạo là nét nổi bật của Đảng ta thể hiện trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt nam, biểu hiện rõ nhất ở những bước ngoặc lịch sử.
Ngay từ khi ra đời, Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã đặt cách mạng việt
nam vào quỹ đạo của trào lưu tiến bộ của loài người trong thế kỷ XX. Đó là sáng tạo lớn
nhất, là nền tảng vững chắc cho cho những giai đoạn phát triển của đất nước sau nầy là giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng xác định con đường tiến lên của cách mạng
Việt nam phải trải qua hai giai đoạn là cách mạng dân tộc dân chủ sau đó đi lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa., mục tiêu cuối cùng của Đảng là chủ
nghĩa cộng sản.
Trong khi nhiều nhà cách mạng Châu âu cho rằng, chỉ khi nào cách mạng ở chính
quốc thành công thì sự nghiệp giải phóng ở các nước thuộc địa mới có thể hoàn thành, thì
Nguyễn Ái Quốc đã cho rằng, sự nghiệp giải phóng ở các nước thuộc địa có thể chủ động
dựa vào sức mình mà giành thắng lợi trước, hơn nữa có thể giúp đở ủng hộ nhiều cho sự
nghiệp cách mạng ở chính quốc. Luận điển của Hồ chí Minh đã góp phần làm phong phú
thêm lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa, về mối quan hệ giữa cách mạng
vô sản và cách mạng thuộc địa.
Đảng mới ra đời đã phát động được cao trào đấu tranh rộng lớn trong phạm vi cả
nước mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, một hình thức chính quyền cách mạng của công
nông lần đầu tiên xuất hiện ở hai tỉnh Nghệ an và Hà tĩnh là một độc đáo sáng tạo so với
các hình thức Xô viết đã xuất hiện trong phong trào công nhân thế giới.
Sau cao trào cách mạng 30-31, kẻ thù thực hiện chiến dịch đàn áp, khủng bố khốc
liệt, cách mạng bị dìm trong bể máu. Tình hình đen tối tưởng như không có đường ra, song
với niềm tin mãnh liệt vào phương hướng mục tiêu đã định, Đảng đã lãnh đạo, tổ chức
quần chúng đấu tranh, nhanh chóng vượt qua thoái trào tiến lên một cao trào mới, cao trào
dân sinh, dân chủ 1936-1939 hiếm thấy ở các nước thuộc địa.
Cách mạng tháng tám 1945 là thắng lợi của tư tưởng đường lối nêu cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc của chủ tịch Hồ chí Minh và của Đảng ta. Năm 1928 Quốc tế cộng sản cho
rằng hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến là đồng thời song song. Chủ tịch HCM và
Đảng ta đặt nhiệm vụ chống đế quốc giải phóng dân tộc lên hàng đầu, nhiệm vụ chống
phong kiến rãi ra thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc. Thực tiển
9
9
cách mạng nước ta, với những thắng lợi giành được, chứng tỏ đường lối giải phóng dân tộc
đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu là đúng đắn sáng tạo.
Tinh thần chủ động tạo ra thời cơ và kịp thời nắm thời cơ để giành chính quyền về
tay nhân dân là một sáng tạo vô giá. Khéo kết hợp nhân tố dân tộc với nhân tố quốc tế,
tranh thủ điều kiện thuận lợi của thế giới, đó là chiến tranh thế giới kết thúc, Nhật đầu hàng
đồng minh, Đảng đã kịp thời phát động và lãnh đạo toàn dân nỗi dậy giành chính quyền.
Sau cách mạng tháng tám, chính quyền cách mạng như "ngàn cân treo sợi tóc". Các
thế lực đế quốc cấu kết với nhau định bóp chết chính quyền cách mạng, tiêu diệt đảng cộng
sản, xóa bỏ thành quả cách mạng. Bọn việt gian phản động núp dưới chân đế quốc từ nước
ngoài về hoặc từ trong nước ngóc đầu dậy tìm mọi cách chống phá mưu toan lật đỏ chính
quyền, kinh tế kiệt quệ, tài chính trống rỗng.
Chủ tịch HCM và Đảng ta đã có những quyết sách táo bạo, chính xác và kịp thời.
Khi thì hòa với Tưởng để đánh Pháp,khi thì hòa với Pháp để gạt Tưởng. Tránh cho nhân
dân ta cùng một lúc phải đương đầu với nhiều kẻ thù, có thời gian củng cố xây dựng lực
lượng, chuẩn bị cuộc chiến đấu lâu dài. Phải là một Đảng có bản lĩnh chính trị vững vàng,
kiên định mới có thể chèo lái đua con thuyền cách mạng Việt nam vượt qua thác ghềnh
nguy hiểm đó.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta đã đề ra đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh. Với đường lối đó trải qua 9 năm kháng
chiến anh dũng, quân dân ta đã làm nên chiến thắng Điện biên phủ chấn động địa cầu.
Sau Hiệp định Giơnevơ 7-1954 nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Đảng
quyết định tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: Cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ có
quan hệ mật thiết thúc đẩy lẫn nhau. Cách mạng miền Nam có ý nghĩa quyết định trực tiếp
sự nghiệp giải phóng miền Nam. Cách mạng XHCN ở miền Bắc có ý nghĩa quyết định
nhất sự nghiệp cách mạng chung của cả nước. Tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược cách mạng là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ
1954 đến 1975.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt nam diễn ra trong tình hình thế giới
diễn biến phức tạp như tư tưởng hòa bình chủ nghĩa, sợ chiến tranh lan rộng, mâu thuẫn
Liên xô-Trung quốc gay gắt. Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam, leo thang bắn phá miền
Bắc. Trước tình hình đó, Đảng và chủ tịch Hồ chí Minh vẫn kiên định đường lối tiến hành
đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng, quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất
tổ quốc.
Đất nước hòa bình thống nhất, cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng khởi
xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước trong bối cảnh đặc biệt. Thế giới trải qua
một thời kỳ đầy biến động, cách mạng thế giới đang tạm thời lâm vào thoái trào, Liên xô
và các nước xã hội chủ nghĩa Đông âu tan rã, thị trường truyền thống bị đảo lộn. Đất nước
đứng trước những nguy cơ lớn: Mỹ tiếp tục bao vây cấm vận đối với Việt nam, các thế lực
thù đich tấn công từ nhiều phía mưu toan phủ định chủ nghĩa Mac-Lênin, phủ định vai trò
lãnh đạo của Đảng. Một số nước thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập làm cho
một bộ phận cán bộ, đảng viên hoang mang, dao động. Đất nước lâm vào khủng hoảng
kinh tế-xã hội.
Trong bối cảnh hết sức phức tạp đó, đảng ta vẫn kiên định con đường xã hội chủ
nghĩa, kiên trì đổi mới, đổi mới có nguyên tắc, không hoang mang dao động, không bắt
10
10
chước người khác, không vì sức ép từ bất cứ phía nào mà thay đổi phương hướng mục tiêu
đã định.
Công cuộc đổi mới trước hết tập trung vào kinh tế, trên cơ sở đổi mới kinh tế mà
từng bước đổi mới chính trị một cách vững chắc, Trong quá trình đổi mới, Đảng đã giải
quyết thành công mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Chủ trương đó là kết quả
của quá trình nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiển, tìm tòi sáng tạo của Đảng và của quần
chúng nhân dân.
Thực hiện đường lối đối ngoại mở rộng, Việt nam muốn là bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng quốc tế vì độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình và phát triển, thực hiện đa
dạng, đa phương hóa đã tạo được môi trường thuận lợi cho hòa bình, ổn định xây dựng.
Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh,
Đảng quyết định thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Đây là việc làm hoàn
toàn mới đối với đất nước ta. Vơi bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ sáng tạo, chắc chắn
Đảng ta sẽ hoàn thành sứ mệnh lịch sử giao phó
Sở dĩ Đảng ta có bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo là nhờ có những nhân tố
sau:
- Phẩm chất chính trị của Đảng ta là trung thành vô hạn với giai cấp và dân tộc, một
lòng vì nước vì dân, gắn bó mật thiết với nhân dân. Ngoài lợi ích của giai cấp và dân tộc,
Đảng ta không có lợi ích nào khác.
- Đảng đã nắm vững, vận dụng một cách độc lập, sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không giáo điều sách vở, biết kế thừa và phát huy
truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Đảng rất coi trọng hoạt động thực tiển, qua thực tiển mà bổ sung hoàn thiện đường
lối.
- Đảng ta đã dũng cảm nhìn đúng sự thật, nói rõ sự thật, tự phê bình nghiêm khắc và
quyết tâm sữa chữa. Đảng có lúc sai lầm, thậm chí sai lầm nghiêm trọng nhưng với tinh
thần trách nhiệm cao đối với nhân dân, Đảng ta đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ
sự thật, phê bình nghiêm khắc trước nhân dân và có kế hoạch, biện pháp kiên quyết sữa
chữa.
Nhìn lại lịch sử 74 năm qua của cách mạng Việt nam chúng ta thấy rằng bản lĩnh
chính trị, tính kiên định cách mạng, tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo vượt qua khó
khăn thử thách không chỉ là truyền thống mà còn là nét nổi bật Đảng.
11
11
PHÂN TÍCH BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA ĐẠI HỘI IX: TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
PHẢI KIÊN TRÌ MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CNXH TRÊN NỀN TẢNG CHỦ NGHĨA
MÁC-LÊNIN TƯ TƯỞNG HCM.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hạt nhân tư tưởng HCM, là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt quá trình cách mạng Việt nam từ khi có Đảng, là cơ sở để Đảng ta giải quyết đúng
đắn một loạt vấn đề chiến lược, phương pháp cách mạng trong cách mạng dân tộc dân chủ
cũng như trong cách mạng XHCN, là nguồn gốc sức mạnh bách chiến bách thắng của cách
mạng Việt nam.
Dưới chế độ thuộc địa nữa phong kiến yêu cầu bức thiết của dân tộc là giải phóng
khỏi ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc và địa chủ phong kiến, xây dựng một chế
độ xã hội mới đảm bảo độc lập tự do và hạnh phúc của nhân dân. Để giành lại độc lập dân
tộc xây dựng cuộc sống mới phong trào yêu nước của nhân dân ta diễn ra rất sôi nỗi và liên
tục, nhưng thiếu đường lối và sự lãnh đạo đúng đắn. Các phong trào cứu nước từ lập
trường Cần vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt
thất bại. Tình hình đó đòi hỏi phải có đường lối cách mạng đúng đắn và một tổ chức cách
mạng có khả năng lãnh đạo phong trào cứu nước đi đến thắng lợi.
Phải qua tìm tòi, nghiên cứu nhiều cuộc cách mạng, từ Mỹ, sang Anh đến Pháp, qua
nhiều nước thuộc địa, cuối cùng với cách mạng tháng mười Nga, Nguyễn Ái Quốc mới đi
đến kết luận: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản.
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt nam là sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước, là hiện thân quan trọng nhất của sự kết hợp độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định cách mạng Việt nam trải qua hai giai
đoạn trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ sau đó đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai
đoan phát triển tư bản chủ nghĩa. Tùy hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn cách mạng,
nhiệm vụ trọng tâm có khác nhau, nhưng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
nam Đảng ta luôn luôn kết hợp hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ 1930-1954 Thời kỳ nầy độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được thể hiện
giải phóng dân tộc, giành độc lập và dân chủ là nhiệm vụ trực tiếp, chủ nghĩa xã hội là
phương hướng tiến lên. là thời kỳ thủ thách quyết liệt đầu tiên về vai trò nền tảng tư tưởng
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thời kỳ 1954-1975: thời kỳ cả nước tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng.
Trong thời kỳ nầy sự kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thể hiện tập trung
ở việc xác định nhiệm vụ mỗi miền và việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai miền
hướng tới mục tiêu chung của cách mạng cả nước,miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa, miền Nam tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ. Cách mạng XHCN ở miền Bắc
có vị trí quyết định nhất sự nghiệp cách mạng cả nước, cách mạng miền Nam có vị trí
quyết định trực tiếp sự nghiệp giải phóng miền Nam, cách mạng cả hai miền đều nhằm
mục tiêu chung là hoàn thành độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc.
Với đại thắng mùa xuân năm 1975, nước ta đã bước sang một thời kỳ mới- thời kỳ
hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lện chủ nghĩa xã hội trong điều kiện đất nước
nghèo nàn lạc hậu, không qua chủ nghĩa tư bản, với hậu quả nghiêm trọng do chiến tranh
để lại.
12
12
Do nhận thức đặc điểm dân tộc và quy luật chủ nghĩa xã hội không chuyển biến kịp
với bước ngoặc của cách mạng nên trong lãnh đạo Đảng phạm sai lầm chủ quan duy ý chí,
thể hiện ở cả hai mặt: vừa nóng vội vừa bảo thủ trì trệ, chủ nghĩa giáo điều và lạc hậu về
nhận thức lý luận Mác Lênin là nguồn gốc của sai lầm,làm cho Đảng bất cập trong xác
định những chủ trương, chính sách lớn và chỉ đạo chiến lược. Trong giai đoạn nầy cách
mạng ở nước ta đứng trước những khó khăn và thách thức cực kỳ to lớn.
Ở trong nước, khó khăn lớn nhất là nền kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng trầm
trọng. Sản xuất trì trệ, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế bị giảm sút. Đời sống nhân
dân, cán bộ viên chức và lực lượng vũ trang trở nên rất khó khăn. Nhu cầu tối thiểu như
lương thực, hàng thiết yếu thiếu gay gắt. Nạn đói diễn ra nhiều nơi. Vấn đề công ăn việc
làm, tệ nạn xã hội trở nên nhức nhối.
Trên trường quốc tế, đế quốc Mỹ và bọn phản động quốc tế cấu kết nhau lại bao vây
cô lập Việt nam.Lợi dụng khó khăn về đời sống kinh tế-xã hội của nước ta sau chiến tranh,
chính quyền Mỹ kích động lôi kéo hàng nghìn đồng bào ra đi bất hợp pháp, hòng tạo nên
sự mất ổn định ở nước ta. Cùng với một số nước đồng minh, Mỹ vu cáo Việt nam vi phạm
"nhân quyền" tại một số hội nghị quốc tế.
Những năm cuối của thập kỷ 70, nền kinh tế Liên xô và một số nước XHCN Đông
âu đã có những biểu hiện trì trệ khủng hoảng, bước vào đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX,
quan hệ hợp tác giữa các nước XHCN đã có sự thay đổi.
Nhờ kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà toàn Đảng và
toàn dân đã từng bước tìm tòi, thể nghiệm để phát hiện những hình thức, bước đi phương
pháp mới của con đường xã hội chủ nghĩa nhằm vượt qua khủng hoảng.
Mốc chuyển biến nầy được đánh dấu bằng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới.
Đảng phải đổi mới về nhiều mặt; đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ
chức; đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác".
Quá trình đổi mới tư duy trên thực tế là quá trình đấu tranh về mặt lý luận và tư
tưởng nhằm đạt đến nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt nam.
Đổi mới cơ cấu kinh tế coi nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một đặc trưng
của thời kỳ quá độ, nền kinh tế đó được vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đảng chỉ ra rằng cơ chế quản lý tập trung quan liêu
bao cấp từ nhiều năm không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ
nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm
giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn phân phối lưu thông, và để ra nhiều hiện
tượng tiêu cực trong xã hội.
Xây dựng cơ chế mới phù hợp là nội dung quan trọng của đường lối đổi mới. Từ cơ
chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, từ chỗ tuyệt đối hoá vai trò của kế hoạch sang chỗ thừa nhận thị
trường, khẳng định phải kết hợp kế hoạch với thị trường, trong đó kế hoạch định hướng thị
trường, còn thị trường vừa là căn cứ vừa là đối tượng của kế hoạch có vai trò điều tiết cung
cầu, giá cả, điều tiết sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế.
Để thiết lập cơ chế quản lý mới, cần thực hiện cải cách lớn về bộ máy Nhà nước.
Nhà nước quản lý kinh tế thông qua hệ thống chính sách, pháp luật để điều hành nền kinh
13
13
tế vĩ mô. Nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật. Xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất
lượng cao với một đội ngũ có phẩm chất chính trị và có năng lực quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế, quản lý xã hội.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả của công tác đối ngoại, khuyến khích nước ngoài đầu
tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành kỷ thuật cao, làm hàng xuất
khẩu.
Đổi mới nội dung phong cách lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nhận thức rõ hơn về thời
kỳ quá độ, đặc điểm, hoàn cảnh của đất nước. Nâng cao tầm trí tuệ của Đảng, nắm vững
quy luật khách quan, không áp đặt, không bao biện, khắc phục tư duy nóng vội, chủ quan,
duy ý chí.
Đổi mới tư duy còn thể hiện sự khẳng định phải phát huy yếu tố con người và lấy
việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động, coi nguồn lực con người
là quý báu nhất, có vai trò quyết định đối với sự phát triển của đất nước, là yếu tố cơ bản
của sự phát triển nhanh và bền vững.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới
toàn diện, sâu sắc và triệt để. Đó là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và cũng là
tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và dân tộc và đã mở ra thời kỳ mới của
cách mạng nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đổi mới không có nghĩa là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà làm cho mục tiêu
ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những
hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
Trong quá trình thực thực hiện công cuộc đổi mới không phải lúc nào cũng dễ dàng
và thuận lợi. Nhất là vào cuối những năm 80, tình hình các nước xã hội chủ nghĩa có
những diễn biến phức tạp, nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào cuộc khủng hoảng toàn
diện và nghiêm trọng, nhất là vào năm 1991 sự tan rã của Liên xô đã tác động sâu sắc đến
nước ta. Sự kiện đó đã làm cho một số cán bộ và nhân dân ta lo lắng, một số dao động hoài
nghi về tiền đồ của chủ nghĩa xã hội. Quan hệ kinh tế giữa nước ta với các thị trường
truyền thống bị đảo lộn. Một số thế lực thù địch đẩy mạnh những hoạt động gây mất ổn
định chính trị và gây bạo loạn lật đổ. Nước ta một lần nữa lại đứng trước thủ thách hiểm
nghèo. Trước tình hình đó, Đảng ta và nhân dân ta vẫn khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội
là con đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọ sáng suốt của Bác Hồ, của Đảng ta. Xây
dựng nước Việt nam xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta.
Kết quả sau 10 năm đổi mới toàn diện, đất nước đã vượt qua một giai đoạn gay go,
phức tạp, nhân dân ta không những đứng vững mà còn vươn lên đạt những thắng lợi nỗi
bật trên nhiều mặt. Đại hội VIII(1996) của Đảng xác định: Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế xã hội. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề
cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác
định rõ hơn. Đại hội khẳng định tiếp tục đổi mới sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, vì
hạnh phúc của nhân dân.
Năm 2001 Đại hội Đảng lần IX, tổng kết sau 15 năm đổi mới, đã đạt được những
thành tựu quan trọng.
Kinh tế tăng trưởng khá, ổn định, bền vững. đã hình thành dược một số ngành kinh
tế mũi nhọn như điện, dầu khí, than, thủy hải sản
14
14
Văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, giáo dục
và đào tạo phát triển. Những nhu cầu của nhân dân như về ăn mặc ở, chăm sóc sức khỏe,
nước sạch, điện sinh hoạt, học tập đi lại giải trí được đáp ứng tốt hơn.
Chính trị xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường.
Công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được
củng cố.
Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây cấm vận, tham gia tích cực
vào đời sống cộng đồng quốc tế
Thành công của công cuộc đổi mới mang lại đã tạo ra cho Việt nam thế và lực phát
triển mới, là kết quả mang tính tổng hợp của đổi mới , có giá trị định hướng tương lai.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội một lần nữa được thực tiển của cách mạng Việt
nam và thế giới bổ sung làm vững vàng thêm nhận thức của Đảng và nhân dân ta về lý
tuận, chính trị. Nhờ đó, những âm mưu của kẻ thù không lay chuyển được con đường cách
mạng Việt nam.
Thắng lợi của công cuộc đổi mới là nhờ Đảng ta luôn luôn giữ vững mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã
nhấn mạnh bài học chủ yếu là " trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh".
Hiện nay, Độc lập dân tộc ở Việt nam là vừa bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của tổ
quốc, vừa giữ vững chủ quyền, giữ vững bản sắc văn hóa Việt nam, vừa tạo sức mạnh mới
để xây dựng đất nước trong mọi hoàn cảnh nhằm đạt tới dân giàu, nước mạnh xã hội công
bằng dân chủ văn minh.
Chủ nghĩa xã hội hiện nay phải xây dựng trên cơ sở của độc lập dân tộc. Chủ nghĩa
xã hội mà chúng ta đang xây dựng là của Việt nam, mang bản sắc Việt nam. Không thể nói
độc lập dân tộc ở Việt nam mà không có chủ nghĩa xã hội; không thể nói xã hội chủ nghĩa
ở Việt nam mà không có độc lập dân tộc.
Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để thực hiện
dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh cũng là vấn đề cơ bản của dân
tộc, của chủ nghĩa xã hội. Xây dựng và chỉnh đốn Đảng cũng do yêu cầu khách quan của
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đang ở tầm cao mới. Xây dựng và chỉnh đốn Đảng là
làm cho Đảng mạnh lên, sáng ngời bản chất giai cấp công nhân.
Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo của cách mạng
Việt nam, là nguồn cổ vũ toàn dân phát huy năng lực trí tuệ và lực lượng vật chất để tiếp
tục đưa sự nghiệp cách mạng Việt nam đi đến thắng lợi mới.
15
15