Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Sự ấm lên toàn cầu và vấn đề phát thải khí CO2 – P2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.68 KB, 10 trang )


Sự ấm lên toàn cầu
và vấn đề phát thải
khí CO2 – P2




Sự phát thải khí CO
2

Các nhà khoa học phân tích những
nguyên nhân làm tăng CO
2
trong
khí quyển như sau:
Chu trình cacbon
Các nhà khoa học tính toán rằng,
khoảng 4,5 tỷ năm trước đây, khi
trái đất bắt đầu hình thành, CO
2

thể chiếm đến 80% trong khí
quyển. Nhưng cách đây 2 tỷ năm,
lượng CO
2
chỉ còn khoảng 20-30%.
Trong khí quyển còn nhiều CO
2
nên
sự sống vẫn tồn tại. Cây cối quang


hợp rất mạnh làm cho nồng độ
CO
2
giảm xuống và lượng oxy
trong khí quyển tăng lên.
Quá trình quang hợp tạo ra phản
ứng: CO
2
+ H
2
O + năng lượng mặt
trời ® O
2
+ đường.
Cây cối cũng như động vật khi hít
thở tạo ra phản ứng: Đường + O
2
®
CO
2
+ H
2
O + năng lượng.
Ngoài ra, khi cây cối và động vật
chết, xác chết bị phân huỷ làm cho
CO
2
thoát ra. Lượng CO
2
ra khỏi

khí quyển hàng năm được cân bằng
với lượng CO
2
sinh ra do thở và do
phân hủy. Nhờ cơ chế này mà môi
trường được ổn định.
Đốt phá rừng
Khi cây cối chết, chúng thải
CO
2
ra, đó là quá trình bình thường
của chu trình cacbon. Nhưng khi
cây cối bị đốn chặt để làm chất đốt
thì CO
2
thải ra không khí nhiều
hơn, vì thế tốc độ thải CO
2
càng gia
tăng khi con người gia tăng việc
đốn hạ cây xanh làm chất đốt. Nếu
cây cối bị đốn hạ để làm vật liệu
xây dựng, nhà cửa mà không đốt
thì CO
2
không phát thải nhiều,
nhưng do thiếu cây xanh nên sự
hấp thụ CO
2
trong không khí giảm

đi và lượng CO
2
tăng lên. Theo
thống kê của Liên hợp quốc, việc
phá rừng mạnh trong 2 thập kỷ 80
và 90 (thế kỷ XX) đã làm cho
lượng CO
2
trong không khí tăng
lên, đồng thời lượng oxy trong
không khí giảm đi rõ rệt.
Nhiên liệu hoá thạch
Nguồn CO
2
nữa là do lượng cacbon
rất lớn đã được lưu trữ từ trước
đây. Cacbon trong nhiên liệu hoá
thạch được lưu trữ từ hàng triệu
năm trước vì cơ thể sống không bị
phân hủy hoàn toàn, cacbon không
bị phát thải vào khí quyển dưới
dạng CO
2
, trái lại được lưu trữ
trong lòng đất. Trong khi khai thác
và đốt nhiên liệu hoá thạch,
CO
2
mới được phát thải ra nhiều.
Như vậy, việc đốt nhiên liệu hoá

thạch đã nhanh chóng làm cho
cacbon bị giam giữ hàng triệu năm
trước phát thải mạnh lượng CO
2
.
Đây là nguyên nhân lớn nhất làm ô
nhiễm bầu không khí.
Sự ấm lên toàn cầu
Các nhà khoa học lý giải rằng, do
có nhiều phát thải khí CO
2
nên đại
dương mới ấm lên. Nhưng có rất
nhiều CO
2
bị giam giữ trong nguồn
nước trên bề mặt đại dương và khi
nhiệt độ đại dương tăng lên thì xảy
ra hiện tượng giải phóng nhiều
CO
2
bị giam giữ đó (vì độ hoà tan
của CO
2
trong nước biển tỷ lệ
nghịch với nhiệt độ). Như vậy, khi
trái đất ấm lên, lượng CO
2
trong
nước ở đại dương giảm đi còn

lượng CO
2
trong không khí trên
mặt nước lại tăng lên.
Tóm lại, có nhiều nguyên nhân làm
cho lượng CO
2
trong không khí
tăng lên. Có thể phân biệt được
CO
2
tăng lên trong khí quyển là từ
nguồn gốc nào nhờ cách đo đồng vị
phóng xạ. Cacbon có 3 đồng vị: C-
12, C-13 và C-14. C-12 có 6 nơtron
và 6 proton, là đồng vị cacbon bền
vững nhất, còn C-13 có 7 nơtron,
C-14 có 8 nơtron. Khi đo tỷ lệ đồng
vị cacbon trong CO
2
có thể xác
định được nguồn gốc của nó. Qua
theo dõi, người ta biết được việc
dùng xăng dầu, đốt than cho các
nhà máy hoạt động phát thải nhiều
khí CO
2
nhất hiện nay.
CO2 và hiệu ứng nhà kính
Hiệu ứng nhà kính do Jean Baptiste

Joseph Fourier (người Pháp) lần
đầu tiên đặt tên. Khái niệm này
dùng để chỉ hiệu ứng xảy ra khi
năng lượng bức xạ của tia nắng mặt
trời xuyên qua cửa sổ (hoặc mái
nhà bằng kính) một cách dễ dàng
nhưng khi các vật thể trong nhà do
hấp thụ bức xạ mặt trời nóng lên thì
lại sản xuất ra tia hồng ngoại (mà
tia hồng ngoại lại khó xuyên qua
kính để ra ngoài). Vì vậy, nhiệt như
bị “nhốt” lại ở phía trong khiến cho
nhà bị nóng lên.
Các bức xạ của mặt trời đi qua lớp
khí quyển đến mặt đất cũng tương
tự như vậy. Các bước sóng ngắn
xuyên qua khí quyển tương đối dễ
dàng đi xuống mặt đất làm nóng
những vật thể hấp thụ ánh sáng mặt
trời trên mặt đất. Khi nóng lên, các
vật thể này lại bức xạ nhưng vì
nhiệt độ thấp nên bước sóng của
các tia bức xạ này dài, vào cỡ tia
hồng ngoại. Khi bức xạ hồng ngoại
đi vào khí quyển, nếu trong khí
quyển có CO
2
thì các phân tử
CO
2

hấp thụ hồng ngoại rất mạnh
(do cấu tạo của phân tử CO
2
, tia
hồng ngoại kích thích mạnh các
dao động nguyên tử trong phân tử
CO
2
). Vì vậy, tia hồng ngoại (tức là
sức nóng) không thoát ra khỏi khí
quyển được mà bị nhốt lại, khiến
trái đất nóng lên. Như vậy, các
phân tử khí CO
2
trong khí quyển có
tác dụng như là lớp kính ở hiệu ứng
nhà kính. Trong khí quyển không
phải chỉ có CO
2
gây ra hiệu ứng
nhà kính mà còn nhiều loại nữa như
hơi nước, mê tan, CFC Tuy
nhiên, nếu phát thải ra quá nhiều thì
hiệu ứng nhà kính do CO
2
gây ra
khá lớn, ảnh hưởng mạnh đến sự
tăng nhiệt độ trái đất, tức là làm
cho nhiệt độ toàn cầu tăng lên. Do
đó, muốn giảm thiểu sự ấm lên của

toàn cầu cần làm giảm phát thải
CO
2
.
Trong kỳ tới, chúng ta sẽ tìm hiểu
cuộc đấu tranh để giảm sự phát thải
khí CO
2
trên toàn thế giới mạnh mẽ
như thế nào.

×