Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Thuốc trị nhiễm khuẩn niệu trẻ em pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.29 KB, 8 trang )

Thuốc trị nhiễm khuẩn niệu trẻ
em
Posted by hien on November 2nd,
2010

Nhiễm khuẩn niệu (NKN) trẻ em
chiếm khoảng 7% ở bé gái và 2% ở
bé trai dưới 6 tuổi. Đa số do vi
khuẩn ngược dòng với nước tiểu.
Đối với trẻ dưới 12 tháng, đa số do
vi khuẩn từ đường máu. Các vi
khuẩn gây NKN thường là
Escherichia Coli (60 – 80%), kế đến
là Proteus (gặp ở bé trai hoặc ở bệnh
nhi có sỏi thận), Klebsiela,
Enterococcus và các
Staphylococcus. Táo bón mạn, bàng
quang không ổn định làm tăng nguy
cơ NKN trẻ em…
Thuốc điều trị thường dùng
NKN thường do bội nhiễm nhiều
loại khuẩn. Trong lúc chờ kết quả
cấy nước tiểu, cấy máu (để xác định
khuẩn), dùng kháng sinh (KS) phổ
rộng. Sau khi có kết quả kháng sinh
đồ, dùng KS tùy theo sự đáp ứng.
Nếu sau 2 ngày dùng, triệu chứng
không cải thiện thì cấy lại máu, làm
thêm xét nghiệm hình ảnh. Dùng KS
ngắn ngày (3 – 5 ngày) cho hiệu quả
như dùng KS dài ngày (7 – 14


ngày). Sau đợt dùng KS, không cần
cấy lại nước tiểu (vì đa số trường
hợp đều âm tính). Có thể chọn một
trong các KS dưới đây với liều
khuyến cáo:
- Amoxicilin: Có phổ kháng khuẩn
rộng, mạnh và vững bền hơn
penicillin, ampicilin trong đó có tác
dụng mạnh trên Escherichia Coli,
Proteus, Enterococcus, nên dùng
trong NKN, đặc biệt là cho trẻ dưới
2 tuổi.
- Các cephalosporin: Là KS phổ
rộng. Tùy theo sự đáp ứng mà chọn
một trong các loại: cephalexin,
cefprozil, cefpodoxim, cefixim…
- Loracarbef (lorabid): Là KS tổng
hợp thuộc nhóm betalactam gọi là
carbacephem, đôi khi xếp vào nhóm
cephalosporin, có tác dụng trên
Escherichia Coli và các
Staphylococcus (aureus,
pneumoniae, pyogenes) nên dùng
trong NKN (và cả trong nhiễm
khuẩn hô hấp); tương tự như cefaclo
nhưng ổn định hơn về mặt hóa học.
Thuốc có thể gây dị ứng, có khi gây
sốc phản vệ, tiêu chảy (hay gặp ở trẻ
dưới 12 tuổi), làm thay đổi vi khuẩn
ở đại tràng, tăng vi khuẩn C. dificile

, gây viêm đại tràng giả mạc dẫn đến
tiêu chảy, sốt, thậm chí gây sốc;
ngoài ra còn gây buồn nôn, đau
bụng, phát ban, xét nghiệm gan có
bất thường, đau đầu, chóng mặt.
- Sulfisoxazol (tên khác
sulfafurazol): Là sulfamid có nhóm
thế oxazol, kháng các khuẩn gram
âm và dương, dùng trong NKN.
Không dùng với người mẫn cảm với
sulfamid, trẻ dưới 2 tuần tuổi, trẻ đẻ
non dưới 2 tháng tuổi.
Thuốc dự phòng tái phát
Tỷ lệ tái phát ở trẻ dưới 5 tuổi
khoảng 12%, riêng trẻ dưới 6 tháng
tuổi là 18,6%. Dùng KS dự phòng
có thể giảm sự tái phát. Chọn một
trong các KS dưới đây, dùng theo
liều khuyến cáo (thường thấp hơn
liều trong điều trị).
- Acid nalidixic (negram): Là KS
quinolon thế hệ đầu tiên, có phổ
kháng khuẩn rộng, song chủ yếu
trên các gram âm Escherichia Coli,
Proteus, Klebsiela nhưng kháng với
các gram âm (Enterococcus,
Staphylococcus) nên dùng trong
NKN do vi khuẩn gram âm. Không
làm mất cân bằng sinh thái vi khuẩn
đường ruột (ưu điểm hơn loracarbef

nói trên). Thuốc bài tiết qua nước
tiểu dưới dạng chất chuyển hóa
không hoạt tính (80 – 90%) nhưng
còn dạng không biến đổi và dạng
biến đổi có hoạt tính vẫn có nồng
độ 25 – 250microgam/ml (sau khi
uống 1gam), đủ sức để ức chế các vi
khuẩn gây NKN (nồng độ cần thiết
gây ức chế là 16 microgam/ml).
Thuốc có thể gây tích lũy, đặc biệt ở
người suy chức năng gan, thận, thiếu
men G6PD; nghi ngờ gây hỏng sụn
khớp của trẻ nhỏ, vì vậy không
dùng cho trẻ suy chức năng gan
thận, thiếu men G6PD, dưới 3 tuổi.
Ở liều điều trị, ít khi gây tác dụng
phụ nghiêm trọng nhưng quá liều thì
có thể gây loạn tâm thần nhiễm độc,
co giật, tăng áp lực nội sọ, tăng acid
chuyển hóa, nôn, buồn nôn.
- Nitrofurantoin: Kháng và sát khuẩn
đường niệu có thể gây ra rối loạn
tiêu hóa, nôn, buồn nôn, ăn kém
ngon (nhất là dùng lúc đói), sốt, đau
cơ, nhức đầu, khô miệng, chóng
mặt, tăng bạch cầu, khó thở, có triệu
chứng giống hen, rụng tóc, ban đỏ
toàn thân. Dùng kéo dài có thể gây
các phản ứng cấp mạn ở phổi (viêm
kẽ phổi lan tỏa, xơ hóa phổi), bị

viêm gan (nếu dùng nhiều năm), bị
thiếu máu, tan máu (khi thiếu enzym
G6PD). Hiện ít dùng do có các
thuốc tốt và an toàn
hơn.
- Methenamin (hexaminum): Là
chất dị vòng có tính sát khuẩn (do
sinh ra formaldehyt). Dùng dưới
dạng hipurat hay mandelat trong
NKN. Có thể gây rối loạn tiêu hóa,
tiêu chảy, ban đỏ, protein hay huyết
– niệu. Không dùng cho người viêm
thận.
Lưu ý: Nếu trước đó, trẻ có dùng
KS (do dùng trong bệnh khác), sự
phơi nhiễm KS càng gần (trong
vòng 60 ngày) thì khi NKN lần đầu
thường dễ có phát sinh sự kháng
thuốc. Nếu bị phơi nhiễm amoxicilin
trước đó 30 ngày thì sẽ phát sinh sự
kháng amoxicilin+ clavulanat, trước
đó 30 – 60 ngày thì sẽ phát sinh sự
kháng ampicilin. Vì vậy, khi gặp
NKN trẻ em lần đầu, cần xem lại
việc dùng KS trước đó, chọn KS
thích hợp nhằm tránh sự phát triển
kháng thuốc.
Việc chẩn đoán xét nghiệm có nhiều
cải tiến (thuận lợi, tiết kiệm), ngoại
trừ một số KS cũ có tính độc, bị vi

khuẩn kháng ít dùng (nói trên), các
KS đang dùng như amoxicillin,
cephaalosporin, loracarbef, acid
nalidixic đều là thuốc gốc (dễ kiếm,
giá thành hạ); do đó việc điều trị và
dự phòng tái phát NKN có thể thực
hiện thuận lợi ở các tuyến.

×