Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Báo cáo thường niên – Những điều kiền hoàn thiện doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.23 KB, 19 trang )

Báo cáo thường niên – Những
điều kiền hoàn thiện

Mục đích của báo cáo thường niên là nhằm giới thiệu cho
các nhà đầu tư một cách đầy đủ các hoạt động trọng yếu và
tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại
và nhằm mục đích chính là dự đoán giá cổ phiếu và các yếu
tố liên quan như lãi trên mỗi cổ phiếu (EPS) của doanh
nghiệp trong tương lai.
Bởi vậy việc trình bày báo cáo thường niên cũng như các số liệu
tài chính trong quá khứ phải làm sao giúp các nhà đầu tư dễ dự
đoán tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động của công ty, đặc
biệt là EPS tương lai.
Các nhà đầu tư vốn chủ sở hữu kỳ vọng vào cả cổ tức và sự tăng
trưởng trong giá trị cổ phiếu mà họ nắm giữ. Các nhà đầu tư có
rủi ro là có thể không nhận được những khoản tiền này. Do vậy
các nhà đầu tư sử dụng các báo cáo thường niên để: (1) Dự
đoán các khoản lãi kỳ vọng của họ và (2) Đánh giá các rủi ro gắn
liền với các khoản tiền lãi này.
1. Những điều có thể làm tốt hơn trong các báo cáo thường
niên.
Bạn có thể dễ dàng tìm kiếm trên Internet các báo cáo thường
niên của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới niêm yết trên
các thị trường chứng khoán quốc tế tại Mỹ hay Châu Âu như
PG.com của tập đoàn P&G (Mỹ), Unilever.com của tập đoàn
Unilever (Hà lan và Anh Quốc). Mặc dù ở Việt Nam đã có một số
quy định những điều tối thiểu phải trình bày trên báo cáo thường
niên cho các công ty niêm yết. Tuy nhiên các công ty có thể làm
được nhiều hơn thế để giới thiệu về mình với các nhà đầu tư.
Việc trình bày tốt báo cáo thường niên là một công cụ hữu hiệu
để giúp các nhà đầu tư hiểu hơn về công ty mình. Khi nhiều nhà


đầu tư biết và đánh giá cao về công ty của bạn, có nghĩa là cổ
phiếu của công ty bạn được nhà đầu tư đánh giá cao, do vậy nó
có thể ảnh hưởng tốt đến giá cổ phiếu của công ty. Bởi vậy bạn
có thể tham chiếu các báo cáo thường niên của các tập đoàn nổi
tiếng thế giới cho báo cáo thường niên của mình. Sau đây là một
số điểm mà tác giả cho rằng báo cáo thường niên của các công
ty Việt Nam có thể làm tốt hơn.
1.1. Giới thiệu chiến lược của công ty: Bạn nên giới thiệu với
nhà đầu tư chiến lược dài hạn của công ty mà nó tạo nên sự
khác biệt và sự thành công của công ty. Những chiến lược này
giúp cho nhà đầu tư có một cái nhìn về khả năng phát triển dài
hạn của công ty. Chiến lược của công ty phải gắn liền với các thế
mạnh của công ty cũng như trong mối liên hệ với môi trường kinh
doanh của công ty. Hiện tại nhiều công ty Việt Nam đã có phần
trình bày về tầm nhìn, sứ mệnh, giá trị cốt lõi của công ty, tuy
nhiên nhiều công ty không có phần trình bày về chiến lược phát
triển công ty hoặc trình bày khá sơ sài. Điều này có thể làm cho
nhà đầu tư có thể chưa thực sự yên tâm về khả năng phát triển
dài hạn của công ty bạn.
1.2. Rủi ro và quản trị rủi ro. Báo cáo thường niên nên trình bày
các rủi ro chính mà công ty có thể phải đối mặt trong năm tới (tức
năm hiện tại của ngày phát hành báo cáo thường niên) và các
hành động mà công ty sẽ sử dụng để hạn chế các rủi ro xảy ra.
Trình bày tốt phần này có nghĩa là công ty của bạn đã chuẩn bị
rất tốt, đã dự liệu các rủi ro có thể xảy ra trong tương lai và các
biện pháp để ngăn ngừa nó. Điều này giúp các nhà đầu tư tin
tưởng hơn những dự báo kết quả và tình hình tài chính của bạn.
Ví dụ Unilever đưa ra các dự báo rủi ro cho năm 2010 về kinh tế
như sau: Suy giảm kinh doanh trong thời kỳ kinh tế toàn cầu suy
giảm, tránh việc sụp đổ của các khách hàng và nhà cung cấp. Do

vậy họ: Kiểm soát cẩn thận các chỉ số kinh tế và thường xuyên
sử dụng các mô hình ảnh hưởng của các kịch bản kinh tế khác
nhau…
1.3. Các số liệu tài chính quan trọng nên trình bày ít nhất là 5
năm liên tục, và nó phải có ý nghĩa so sánh. Để đánh giá đầy
đủ về một công ty, các nhà đầu tư cần đánh giá các số liệu của ít
nhất là 5 năm gần nhất, được trình bày sao cho thuận tiện nhất
cho việc so sánh. Về nguyên tắc bạn nên trình bày càng dài càng
tốt từ 10-15 năm như vậy nhà đầu tư càng thấy cả quá trình phát
triển của công ty. Báo cáo thường niên 2009 của P&G trình bày
11 năm từ năm 2009 đến năm 1999. Các số liệu tài chính quan
trọng có thể bao gồm như: Doanh thu thuần, Lãi kinh doanh, Lãi
trước thuế, lãi sau thuế cho cổ đông công ty mẹ, EPS cơ bản,
EPS pha loãng, EPS của các hoạt động tiếp tục, EPS của các
hoạt động không tiếp tục, Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh
doanh, Tổng tài tài sản, tổng công nợ, tổng vốn chủ sở hữu. Rất
nhiều báo cáo thường niên hiện chỉ trình bày số liệu có 2 hay 3
năm. Có một số công ty trình bày số liệu tài chính quan trọng 5
năm nhưng các số liệu EPS lại không được điều chỉnh hồi tố khi
có các sự kiện chia thưởng cổ phiếu hay chia cổ tức bằng cổ
phiếu. Bởi vậy việc so sánh EPS qua các năm là không mấy ý
nghĩa hoặc thậm chí là làm sai lệch nghiêm trọng.
Bạn muốn download phần mềm kế toán FTS Accouting miễn
phí phải không? Hãy click vào đây
1.4. Điều chỉnh EPS hồi tố. Nếu số cổ phiếu phổ thông hay cổ
phiếu phổ thông tiềm năng đang lưu hành tăng như là kết quả
của việc phát hành cổ phiếu thưởng hay chia tách cổ phiếu, trả
cổ tức bằng cổ phiếu, việc tính EPS cơ bản và pha loãng cho tất
cả các kỳ được trình bày phải được điều chỉnh tương ứng. Hiện
nay một số công ty không điều chỉnh EPS, một số khác có điều

chỉnh EPS của năm trước, nhưng lại không điều chỉnh trong các
phần các chỉ tiêu tài chính quan trọng cho 5 năm, kết quả là các
nhà đầu tư có được các thông tin EPS gốc mà nó không có mấy
ý nghĩa trong việc so sánh. Ví dụ BCTN của Sacombank ở trang
44 phần các chỉ tiêu tài chính chủ yếu qua các năm, ghi nguyên
gốc EPS năm 2009 là 2.771 đ/CP, năm 2008 là 1.869 đ/CP, trong
báo cáo kết quả kinh doanh cũng tương tự. Tuy nhiên trong phần
thuyết minh số 25 trang 90 thì ghi cả EPS điều chỉnh , khi đó EPS
năm 2008 là 1.623 đ/CP (thay vì 1.869). Lẽ ra EPS năm 2008
trong tất cả các báo cáo của năm 2009 phải được trình bày là
EPS điều chỉnh (1.623 đ/CP), con số này mới có ý nghĩa cho việc
so sánh để thấy được sự tăng trưởng của EPS qua các năm.
Tương tự EPS của các năm 2007 đến 2005 trong số liệu tài chính
qua các năm đều phải điều chỉnh tương ứng để thấy được sự
tăng trưởng của EPS. Việc chỉ trình bày EPS điều chỉnh trong
phần thuyết minh các báo cáo tài chính mà không trình bày trên
các báo cáo quan trọng như Báo cáo kết quả và phần các chỉ tiêu
tài chính quan trọng qua các năm, dễ làm cho các nhà đầu tư
hiểu nhầm, vì không phải ai cũng có thời gian đọc phần thuyết
minh rất dài của các báo cáo tài chính. Hơn nữa việc phải trình
bày EPS điều chỉnh hồi tố là bắt buộc theo quy định của VAS và
IFRS (CM báo cáo tài chính quốc tế).
1.5. EPS pha loãng (Diluted EPS). Việc tính EPS trở nên phức
tạp khi công ty có các khoản trái phiếu chuyển đổi, chứng quyền
và lựa chọn quyền mua cổ phiếu hay các công cụ tài chính mà nó
có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông. VAS quy định chưa
rõ ràng về EPS “suy giảm” tức pha loãng mặc dù chuẩn mực kế
toán quốc tế IAS 33 “yêu cầu bắt buộc báo cáo kết quả kinh
doanh của các công ty phải trình bày cả hai chỉ tiêu EPS cơ bản
và EPS pha loãng trên bề mặt của Báo cáo Kết quả kinh

doanh với mức độ nổi bật như nhau”. Nhiều công ty Việt Nam
hiện nay vẫn chưa báo cáo EPS pha loãng. Cho các quyết định
đầu tư, nhà đầu tư luôn cần phải xem xét cả EPS cơ bản và EPS
pha loãng. Trong tình huống mà doanh nghiệp có nhiều trái phiếu
chuyển đổi thì EPS pha loãng vô cùng quan trọng nó là một chỉ
báo cho EPS của các năm tới chứ không phải là EPS cơ bản. Ví
dụ của ngân hàng ACB trong những năm gần đây là một điển
hình mà EPS pha loãng là cơ sở chính xác hơn để các nhà đầu
tư ước tính EPS của những năm tới.
Chỉ tiêu 2009 2008
EPS cơ bản (Đ/CP) 3.042 3.563
EPS pha loãng (Đ/CP) 2.751 2.979
Tuy nhiên nhiều công ty không trình bày chỉ tiêu EPS pha loãng.
SSI cuối năm 2009 vẫn còn hơn 222 tỷ đ trái phiếu chuyển đổi sẽ
chuyển thành 22.222.400 cổ phiếu mà nó sẽ chuyển đổi vào ngày
30.1.2010 để tăng vốn điều lệ từ 1.533 tỷ đ lên 1.755 tỷ đ. Tuy
nhiên trong phần báo cáo tài chính của SSI năm 2009 không trình
bày chỉ tiêu rất quan trọng đối với các nhà đầu tư là EPS pha
loãng. Nếu tính EPS pha loãng của SSI, nó sẽ giảm hơn 10% so
với EPS cơ bản do cổ phiếu của SSI bị pha loãng 14%.
1.6. Trình bày Lương và thu nhập của Chủ tịch hội đồng quản trị
và Tổng giám đốc. Theo quy định của Việt Nam, Lương của TGĐ
phải được báo cáo trước đại hội đồng cổ đông. Đó là một chỉ tiêu
khá nhạy cảm ở Việt Nam. Rất nhiều công ty không đưa chỉ tiêu
này vào báo cáo thường niên hoặc đưa vào số liệu tổng cho cả
một nhóm ví dụ như HĐQT, Ban kiểm soát và Ban tổng giám đốc.
Cũng có công ty đưa ra con số % lương, thu nhập, thù lao trên
tổng số thu nhập như của Vinamilk mà thực chất thì những con
số này gần như không có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư. Nếu
một công ty trả lương tốt cho Tổng giám đốc, Chủ tịch HĐQT mà

công ty vẫn có kết quả kinh doanh tốt, thì đó là một công ty tốt.
Tuy nhiên nếu một công ty trả lương cho từng cá nhân lãnh đạo
công ty rất thấp nhưng công ty có kết quả kinh doanh tốt, điều đó
làm các nhà đầu tư thấy bất an bởi tính bền vững của các nhà
quản trị này, liệu họ có tiếp tục làm ở đấy nữa hay không? Rủi ro
mà nhà quản trị chuyển sang công ty khác có mức thu nhập tốt
hơn rất dễ xảy ra.
2. Trình bày các báo cáo tài chính
2.1. Trình bày báo cáo tài chính cho số liệu của 3 năm gần
nhất (thay vì chỉ có 2 như hiện nay). Mặc dù chế độ kế toán
của Việt Nam chỉ quy định bắt buộc các số liệu của năm hiện tại
và năm trước đó. Tuy nhiên để các nhà đầu tư có một cách nhìn
tốt hơn về công ty, đa phần các báo cáo tài chính của các công ty
trên thị trường chứng khoán quốc tế (Unilever hay P&G) trình bày
3 năm liên tục cho năm hiện tại và 2 năm liền trước đó. Như vậy
nhà đầu tư sẽ có các số liệu lịch sử dài hơn để có thể đánh giá về
công mà có thể không cần phải tìm hiểu thêm báo cáo của các
năm trước đó. Điều này không trái với quy định của chế độ kế
toán Việt Nam.
Bạn muốn download phần mềm kế toán FTS Accouting miễn
phí phải không? Hãy click vào đây
2.2. Các hoạt động không tiếp tục. Các hoạt động không tiếp
tục liên quan đến việc đóng cửa hoặc bán một bộ phận của
doanh nghiệp. Nếu một công ty cắt bỏ một bộ phận kinh doanh
nào đó, nó cần phải báo cáo riêng biệt kết quả kinh doanh của
các bộ phận vẫn tiếp tục và các bộ phận không tiếp tục, cả hai
đều phải được báo cáo trên báo cáo kết quả kinh doanh hay
trong thuyết minh báo cáo tài chính. Để có các báo cáo kết quả
kinh doanh có tính so sánh tốt, lãi lỗ của các bộ phận không tiếp
tục cần được chỉ ra riêng biệt cho tất cả các năm trong quá khứ

mà bộ phận này hoạt động, nếu không tình hình tài chính hiện tại
của công ty mà nó không bao gồm các bộ phận đã cắt bỏ, sẽ
không thể so sánh được với tình hình tài chính (các số liệu) quá
khứ. EPS là một sự tổng hợp quan trọng, nó được báo cáo riêng
biệt cho các hoạt động không tiếp tục.
2.3. Báo cáo bộ phận . VAS 28 đã yêu cầu chi tiết về báo cáo
các bộ phận, nó giống như IAS 14, tuy nhiên dường như các
công ty làm báo cáo bộ phận rất sơ sài chưa đáp ứng được các
yêu cầu của VAS cũng như yêu cầu của các nhà đầu tư. Báo cáo
bộ phận cần thiết cho việc đánh giá rủi ro và lợi ích kinh tế của
doanh nghiệp có nhiều ngành hàng khác nhau, có cơ sở ở nước
ngoài hoặc doanh nghiệp có phạm vi hoạt động trên nhiều khu
vực địa lý khác nhau. Báo cáo bộ phận nhằm hỗ trợ người sử
dụng báo cáo tài chính: a) Hiểu rõ về tình hình hoạt động các
năm trước của doanh nghiệp; b) Đánh giá đúng về những rủi ro
và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp; và c) Đưa ra những đánh giá
hợp lý hơn về doanh nghiệp.
Ví dụ báo cáo bộ phận của Vinamilk chỉ đưa ra báo cáo kết quả
ngắn gọn của bộ phận xuất khấu và bán nội địa. Thiết nghĩ
Vinamilk nên báo cáo bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh hay
ngành hàng cũng như nhìn thấy được sự rủi ro của chúng. Trong
báo cáo của Chủ tịch HĐQT Vinamilk đã báo cáo rõ hơn về các
bộ phận gồm (1) Nhóm sữa bột và bột dinh dưỡng, (2) Sữa đặc
có đường, (3) Sữa tươi và sữa chua uống, (4) Hàng lạnh, thực
phẩm và giải khát, (5) Cà phê, (6) Đầu tư tài chính. Nếu báo cáo
bộ phận của Vinamilk trình bày theo các ngành này thì nhà đầu tư
sẽ dễ dự đoán được tương lai của công ty hơn. Các số liệu báo
cáo bộ phận nên trình bày cho 3 năm.
2.4. Báo cáo kết quả theo quý và cả năm. Hoạt động của các
doanh nghiệp thường có tính thời vụ, để các nhà đầu tư có một

cái nhìn đầy đủ hơn về doanh nghiệp, bạn nên trình bày báo cáo
kết quả rút gọn theo từng quý và cho 2 năm.
Hãy xem trích đoạn của báo cáo thường niên của P&G năm
2009, phần Kết quả theo quý (chưa kiểm toán) (đơn vị Triệu
USD):
Ngày kết thúc quý 30.9 31.12 31.3
30.6 Cả năm
Doanh thu thuần 2009 21.582 20.368 18.417
18.662 79.024
2008 19.799 21.038 20.026
20.885 81.748
Những công ty hoạt động có tính thời vụ lớn như ngành bánh
kẹo, đồ gỗ, thời trang thì báo cáo năm theo quý đặc biệt có ý
nghĩa với các nhà đầu tư.
2.5. Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh. Trong báo cáo
thường niên của P&G năm 2009, 3 chỉ tiêu tài chính quan trọng
nhất được làm nổi bật (trang đầu) đó là Doanh thu ròng, EPS và
dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh. Một doanh nghiệp có
tình hình tài chính, và kết quả kinh doanh bình thường thì dòng
tiền thuần từ hoạt động kinh doanh là một số dương và nó
thường ở mức bằng lãi ròng sau thuế cộng với các khoản chi phí
khấu hao và chi phí không phải chi tiền trong kỳ. Nó nói lên rằng
cho các hoạt động kinh doanh thông thường, dòng tiền thu về từ
bán hàng và dịch vụ đủ bù đắp cho các chi phí kinh doanh thông
thường và còn dư ra một khoản để tái đầu tư cho tương lai. Tuy
nhiên do các hướng dẫn của VAS chưa rõ ràng, các khoản phải
trả thương mại bao gồm cả các khoản phải trả khác cho mua sắm
tài sản dài hạn, hay tài sản tài chính do vậy dòng tiền từ thuần từ
hoạt động kinh doanh có thể bị lẫn lộn với các dòng tiền từ các
hoạt động đầu tư hay tài chính. Báo cáo thường niên năm 2008

của một công ty đồ gỗ (trong nhóm 10 báo cáo thường niên hay
nhất năm 2008) bị lỗi kỹ thuật rất nghiêm trọng này.
2.6. EPS cơ bản: EPS là một chỉ tiêu rất quan trọng của các
công ty đại chúng và nhất là các công ty niêm yết. Tuy nhiên do
chế độ kế toán của Việt Nam đưa ra cách tính sai rất căn bản
(đến này vẫn chưa sửa). Đó là lãi dùng để tính EPS bao gồm cả
các khoản quỹ khen thưởng phúc lợi không thuộc cổ đông. Bởi
vậy EPS của các công ty bị sai lệnh nhiều ít tùy thuộc vào phần
lãi sau thuế cho quỹ khen thưởng phúc lợi của công ty đó. Rất
nhiều công ty trích quỹ khen thưởng phúc lợi từ 5-15% lợi nhuận
sau thuế, do vậy EPS của các công ty này cũng bị sai lệch tương
ứng tỷ lệ này. Vinamilk năm 2009 trích 10% lãi sau thuế cho quỹ
khen thưởng phúc lợi, nên EPS của Vinamilk bị sai lệch so với số
thực là 10%. Cá biệt có công ty trích quỹ này lên tới 30% như
Công ty Than Núi Béo.

×