Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tập trung kiểm toán 3 nội dung của gói kích cầu doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.99 KB, 8 trang )

Tập trung kiểm toán 3 nội dung
của gói kích cầu
Tổng kiểm toán Nhà nước cho biết, đây là kiểm toán chuyên
đề nên phạm vi rất rộng, đòi hỏi huy động lực lượng lớn,
thời gian dài đủ để có mẫu đánh giá trên cơ sở mẫu đại diện.
Dự kiến, mỗi cuộc kiểm toán cần 60-90 ngày.
Thưa ông, kiểm toán gói kích cầu của năm 2008-2009 có vị trí
như thế nào trong kế hoạch kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước
trong năm nay?
Trọng điểm của Kiểm toán Nhà nước trong năm 2010 rất chú
trọng đến việc kiểm toán, đánh giá các gói kích thích của Chính
phủ nhằm đối phó khủng hoảng kinh tế. Gói kích thích kinh tế của
Chính phủ trị giá khoảng 8 tỷ USD đã được tung ra rất đúng lúc
nên tạo ra hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên, việc triển khai các chính
sách chắc chắn có khó khăn hoặc bộc lộ một số thiếu sót.
Mục tiêu của chúng tôi là phải chứng minh được về mặt định
lượng trên cơ sở mẫu chọn đối với hiệu quả của từng gói kích
thích kinh tế, từng biện pháp kích thích kinh tế. Mặt khác cũng
đánh giá được việc các bộ ngành hướng dẫn các văn bản, chính
sách có phù hợp với Nghị quyết 30 của Chính phủ hay không.
Một vấn đề cũng không kém phần quan trọng là đánh giá, kiểm
tra tình hình thực thi các chính sách này, trên cơ sở đó kiến nghị
với Quốc hội để rút kinh nghiệm cho việc điều hành kinh tế trong
thời gian tới.
Theo hướng đó, chúng tôi tập trung 3 nội dung chủ yếu.
Thứ nhất là chuyên đề về huy động, quản lý và sử dụng trái phiếu
Chính phủ giai đoạn 2007-2009, trọng tâm nhất là năm 2009,
năm mà chúng ta sử dụng gói kích thích kinh tế bằng trái phiếu
Chính phủ. Thứ hai, tập trung kiểm toán việc thực thi chính sách
hỗ trợ lãi suất, dự kiến 17.000 tỷ VND do các tổ chức tín dụng,
ngân hàng trực tiếp thực hiện đối với các doanh nghiệp. Thứ ba,


tập trung vào gói miễn giảm, giãn và hoàn thuế, quy mô dự kiến
khoảng 28.000 tỷ VND.
Hiện các gói kích thích kinh tế đó đã hết hiệu lực nhưng vẫn có
nhiều ý kiến cho rằng một phần của gói kích thích kinh tế đã được
sử dụng để “đảo nợ”, vậy các cơ quan kiểm toán có công cụ gì để
giám sát và và đánh giá hiệu quả?
Trong hỗ trợ lãi suất, rủi ro luôn hiện hữu. Việc sử dụng hỗ trợ lãi
suất để đảo nợ hoặc thậm chí gửi ở một ngân hàng khác với lãi
suất cao hơn là một rủi ro có thể xảy ra trong gói này. Ngay từ
đầu, Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại đã tăng
cường kiểm tra, giám sát việc vay vốn. Thông qua kiểm toán, tức
là hậu kiểm, trên một quy mô mẫu kiểm toán nhất định, chúng ta
không chỉ chứng minh được hiệu quả thực tế của gói kích thích
kinh tế mà còn có thể phát hiện ra những “phản ứng phụ”, những
bất cập hay thiếu sót trong quá trình triển khai các gói kích thích
kinh tế.
Trong mục tiêu kiểm toán, chúng tôi cũng đặt ra những biện pháp
đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát của hoạt động này và
có những biện pháp kiểm toán phù hợp, không chỉ đối với các tổ
chức ngân hàng và tín dụng, mà còn khảo sát và kiểm tra tại các
đơn vị được thụ hưởng và sử dụng gói hỗ trợ lãi suất này, tức là
các doanh nghiệp.
Dự kiến thời gian nào sẽ hoàn tất việc kiểm toán gói hỗ trợ lãi
suất, thưa ông?
Vì đây là kiểm toán chuyên đề nên phạm vi rất rộng, đòi hỏi huy
động lực lượng lớn, thời gian dài đủ để có mẫu đánh giá trên cơ
sở mẫu đại diện. Dự kiến mỗi cuộc kiểm toán cần 60-90 ngày.
Tuy nhiên, đây không chỉ là một cuộc kiểm toán chuyên đề mà
còn cần phải có sự phối hợp của các cơ quan kiểm toán khu vực,
khi các đơn vị này kiểm toán ngân sách tỉnh/thành phố trực thuộc

Trung ương thì cũng có nội dung này. Do đó, việc tổng hợp kết
quả kiểm toán chắc phải đến quý 3 mới hoàn thành. Đối với các
gói hỗ trợ lãi suất và quản lý sử dụng trái phiếu Chính phủ, dự
kiến trong quý 3 sẽ tiến hành.
Ông nghĩ sao khi nhiều doanh nghiệp “kêu ca” là không chỉ phải
làm việc với đoàn Kiểm toán Nhà nước mà còn phải tiếp một số
đoàn thanh tra, kiểm tra thuộc bộ, ngành khác, rất mất thời gian
và ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp?
Cần phải hiểu rằng, kiểm toán là hoạt động thường xuyên, nhất là
chức năng xác nhận báo cáo tài chính và các quyết toán, đó
chính là việc giải tỏa trách nhiệm cho người sử dụng, quản lý và
điều hành ngân sách, kinh phí Nhà nước. Nếu người ta thấy
được lợi ích của hoạt động kiểm toán, thì hoạt động này trở nên
rất thân thiện đối với các cơ quan, tổ chức. Vì thế, hiện tượng “sợ
kiểm toán” đang ngày càng giảm đi, và số lượng các yêu cầu
kiểm toán ngày càng tăng lên. Số các tổ chức, đơn vị đích thân
đặt hàng kiểm toán cũng rất nhiều.
Tuy nhiên, kiểm toán cũng phải có những mục tiêu, chương trình
theo từng năm, căn cứ vào điều hành của Chính phủ và kế hoạch
giám sát của Quốc hội, không thể thỏa mãn 100% yêu cầu của
các đơn vị được.
Một vấn đề rất lớn mà chúng tôi luôn phải tính đến là sự chồng
chéo và trùng lặp trong hoạt động của các cơ quan kiểm tra, kiểm
toán, thanh tra và điều tra, do vậy phải tăng cường các quy chế
phối hợp. Chúng tôi cũng đã có những quy chế liên tịch với các
cơ quan chức năng phòng chống tham nhũng có quan hệ gần gũi
và thuận lợi giữa Kiểm toán Nhà nước và Ủy ban kiểm tra Trung
ương.
Do vậy, hàng năm, khi đưa ra kế hoạch kiểm toán, bao giờ chúng

tôi cũng xin ý kiến của Ủy ban phòng chống tham nhũng Trung
ương, Thanh tra Chính phủ, Bộ Tài chính, thanh tra của Bộ Kế
hoạch Đầu tư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nhằm khắc phục một
cách tốt nhất sự trùng lắp trong hoạt động kiểm tra, thanh tra.
Theo Chỉ thị 61 của Thủ tướng Chính phủ, trong một thời điểm
chỉ nên có một đoàn thanh tra, kiểm tra tại một đơn vị. Mặt khác,
chúng tôi cũng phải tăng cường các phương tiện trợ giúp để đảm
bảo cho cuộc kiểm toán diễn ra nhanh nhất và đang từng bước
thử nghiệm việc tăng cường thời lượng kiểm toán tại trụ sở cơ
quan.

×