Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Đánh giá tác động của gói kích cầu đến nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2008- 2009.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.11 KB, 64 trang )

Tên đề tài: Đánh giá tác động của gói kích cầu đến nền
kinh tế Việt Nam giai đoạn 2008- 2009
Lời mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn 2008 – 2009, một vấn đề bức thiết gây chấn động địa cầu đã xảy ra
đó chính là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Nó bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài
chính Mỹ từ cuối năm 2007, kéo theo phản ứng dây chuyền lên toàn bộ nền kinh tế của các
nước công nghiệp phát triển. Kết quả là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam bị
ảnh hưởng tiêu cực trên nhiều khía cạnh. Một trong những giải pháp mà chính phủ các
nước đưa ra để cứu vãn tình thế này và khắc phục hậu quả của nó là tung ra các gói kích
cầu nhằm kích thích nền kinh tế phát triển, thoát khỏi tình trạng suy thoái. Chính phủ Việt
Nam cũng hành động như vậy. Sau hơn 2 năm hội nhập với nền kinh tế thế giới thì nền
kinh tế Việt Nam đang đứng trước một nguy cơ và thách thức to lớn. Để đối phó với khủng
hoảng kinh tế, vào cuối năm 2008 chính phủ Việt Nam đã đưa ra gói kích thích kinh tế trị
giá 9 tỉ đôla chia làm 2 giai đoạn thực hiện. Kế hoạch kích thích kính tế này của chính phủ
không nằm ngoài mục đích phục hồi nền kinh tế và duy trì tăng trưởng. Tuy nhiên hiện nay
vẫn chưa có một đánh giá cụ thể nào về tác động của gói kích cầu này đến nền kinh tế Việt
Nam. Với mục đích như vậy, đề tài nghiên cứu này cũng nhằm bày tỏ quan điểm cũng như
cách nhìn riêng của chúng tôi về tác động của gói kích cầu đến nền kinh tế Việt Nam trong
giai đoạn 2008-2009. Với đề tài nghiên cứu này chúng tôi hi vọng có thể có một cách nhìn
khái quát về vấn đề tác động của gói kích cầu để từ đó rút ra được những kinh nghiệm, bài
học cũng như những mặt còn hạn chế để từ đó định hướng cho việc tiếp tục thực hiện gói
kích cầu trong năm 2010.
2. Tóm tắt nội dung chính
Đề tài nghiên cứu được chia làm 2 chương chính:
Chương 1: Lý thuyết kinh tế về vai trò điều tiết của chính phủ.
Chương 2: Thực trạng áp dụng các gói kích cầu ở Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu, góc độ tiếp cận
1
Đề tài chủ yếu dùng phương pháp phân tích hệ thống, thống kê, so sánh. Do những
hạn chế khách quan nên đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp điều tra phân tích. Tuy nhiên,


việc vận dụng phương pháp phân tích không có nghĩa mang nặng tính lý thuyết mà cách
tiếp cận và giải quyết vấn đề dựa trên tính logic của các hiện tượng kinh tế, quy luật kinh tế
và các lý thuyết kinh tế để suy luận.
Trong đề tài này chúng tôi sẽ tiếp cận vấn đề nghiên cứu dựa trên tư tưởng kích
cầu của Keynes. Với cách tiếp cận này chúng tôi hi vọng có thể có một cái nhìn tổng thể và
khái quát về nền kinh tế, nguyên nhân khủng hoảng kinh tế, các gói kích thích cầu mà quan
trọng hơn hết là tác động của các gói kích cầu đến nền kinh tế Việt Nam.

Chương 1: Lý thuyết kinh tế về vai trò điều tiết của chính phủ
2
1.1 Lý thuyết về kích cầu và tổng cầu của Keynes
Thật khó để chính phủ có thể xác định được cần làm gì trong tình trạng nền kinh tế
suy thoái trầm trọng, khó hơn nữa đó là phải thực hiện kích thích kinh tế như thế nào cho
phù hợp với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Đây là một bài toán khó mà các nhà lãnh đạo
Việt Nam đang gặp phải. Do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (bắt đầu từ cuối năm
2007) đã tác động lớn tới nền kinh tế Việt Nam làm cho nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình
trạng khủng hoảng trầm trọng. Trước tình hình này, chính phủ ta đã đưa ra một giải pháp
cho đất nước đó là thực hiện một gói kích thích khổng lồ (từ 1% - 5% GDP) trong thời gian
ngắn, nhưng vấn đề đặt ra ở đây đó là: sẽ là thiếu thận trọng nếu không xác định rõ cơ sở
kinh tế trên thực tiễn cũng như lý luận cho hoạt động này.
Mặc dù chúng ta đang ở trong một tình trạng khó khăn và cần những quyết
định mạnh mẽ, nhanh và sáng suốt. Nhưng sẽ rất khó để thành công nếu chỉ dựa trên kinh
nghiệm và trào lưu chung của các nước khác như các nước công nghiệp phát triển và đang
phát triển (Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản,Trung Quốc...). Dường như chính phủ vẫn có một
tâm lý bất an về chính sách kích cầu liên tục được viện trợ như một cái phao cứu hộ. Tuy
nhiên chính sách kích cầu của chính phủ thường làm dịch chuyển những nguồn lực rất lớn
trong nền kinh tế, cũng như những hậu quả lâu dài. Nếu thực hiện đúng thì đây sẽ là liều
thuốc hữu hiệu chữa lành căn bệnh cho nền kinh tế Việt Nam hiện nay, nhưng ngược lại nó
cũng có thể gây thương tích và những hậu quả khó lường lâu dài cho nền kinh tế.
Trong phần tiếp theo chúng ta sẽ xem xét nguồn gốc tư tưởng kích cầu và lý

thuyết kích cầu.
1.1.1 Tư tưởng kích cầu
Đầu tiên chúng ta nên dành một chút thời gian để tìm lại gốc gác làm nền tảng cho
nguyên lý kích cầu trong kinh tế vĩ mô.
Quay trở lại thời kỳ trước khủng hoảng kinh tế thế giới thứ 2: Nền kinh tế thế giới
phát triển ổn định nhưng đến năm 1929 nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng thừa,
vấn đề này đã làm cho nền kinh tế toàn cầu bị ảnh hưởng lớn và chịu những hậu quả
nghiêm trọng. Nhưng thời kỳ trước cuộc đại khủng hoảng này tư tưởng điều tiết nền kinh tế
vĩ mô vẫn theo hướng lý thuyết kinh tế mà chủ yếu đó là trường phái cổ điển và tân cổ
điển. Nội dung cơ bản của lý thuyết này đó là ủng hộ tư tưởng tự do kinh doanh, tức là sự
3
điều tiết của cơ chế thị trường sẽ đưa nền kinh tế tới sự cân bằng, không cần có sự can
thiệp của nhà nước vào nền kinh tế - Chính tư tưởng này đã không giúp ích gì cho việc
khắc phục khủng hoảng và tình trạng thất nghiệp mà cuộc đại khủng hoảng suy thoái 1929-
1933 gây ra. Cụ thể là, vào những năm 30 của thế kỷ XX, ở các nước phương Tây, khủng
hoảng kinh tế diễn ra thường xuyên, tình trạng thất nghiệp nghiêm trọng. Như vậy là lý
thuyết kinh tế tự điều chỉnh bị thất bại trước thực tế phũ phàng của nền kinh tế Tư Bản Chủ
Nghĩa, đặc biệt là cuộc đại khủng hoảng kinh tế năm 1929-1933 đã làm tan rã tư
tưởng tự do kinh tế. Mặt khác, vào đầu thế kỷ XX, lực lượng sản xuất và sự xã hội hóa sản
xuất phát triển, độc quyền ra đời và bắt đầu bành trướng thế lực. Tình hình này đòi hỏi phải
có sự điều chỉnh của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế ở các nước Tư Bản Chủ Nghĩa.
Xuất phát từ thực trạng của cuộc khủng hoảng này đã hình thành nên lý thuyết kinh tế “
Chủ Nghĩa Tư Bản có điều tiết ” ra đời – hay còn gọi là trường phái Keynes – cần có sự
can thiệp của chính phủ vào kinh tế. Bởi nhờ đó chính phủ sẽ sử dụng chính sách tài khóa
và chính sách tiền tệ để làm giảm đi những ảnh hưởng bất lợi do suy thoái kinh tế hay bùng
nổ kinh tế gây ra.
Sau đây là đôi nét giới thiệu về Keynes – người có ảnh hưởng lớn nhất đối với kinh
tế học phương Tây hiện đại và chính sách kinh tế của các chính phủ. John Maynard
Keynes (1883-1946) là một nhà kinh tế học người Anh đã có thành công lớn trong việc
hình thành nền kinh tế học Keynes, có ảnh hưởng lớn tới kinh tế học hiện đại và chính trị

cũng như các chính sách tài chính của nhiều quốc gia. Ông chính là người khai sinh ra kinh
tế học vĩ mô hiện đại. Ông viết nhiều tác phẩm, những tác phẩm chính của ông là “Tiền tệ
và tài chính Ấn Độ” , “Hậu quả kinh tế của hòa ước” năm 1919, “Thuyết cải cách tiền tệ”
năm 1923, “Hậu quả kinh tế của ngài Churchill” năm 1925, “Thuyết tiền tệ” năm 1930.
Trong đó, tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đó là “ Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất
và tiền tệ ” năm 1936. Tác phẩm này đã khái quát được tư tưởng tiến bộ của ông về vai trò
điều tiết của chính phủ trong nền kinh tế. Cụ thể là việc chi tiêu của chính phủ để kích thích
nền kinh tế bắt nguồn từ hai giả thuyết quan trọng của Keynes.
Giả thuyết thứ nhất đó là cuộc suy thoái bắt nguồn từ nền kinh tế có năng lực sản
xuất bị dư thừa. Biểu hiện của tình trạng này là các yếu tố đầu vào cho sản xuất không
được sử dụng hết công suất: thất nghiệp trên thị trường lao động, máy móc bị bỏ bê trong
4
khu vực doanh nghiệp, và hàng hóa thì ế thừa… Hiện tượng dư cung khiến giá cả có
khuynh hướng giảm trên tất cả các thị trường, do đó càng không khuyến khích được người
mua, do vậy cầu càng ở dưới xa cung thực tế. Kết quả là nền kinh tế bị rơi vào một cái bẫy
suy thoái mà khó có thể tự thoát ra được.
Giả thuyết thứ hai, chính phủ có khả năng chủ động chi tiêu toàn bộ, thậm chí
nhiều hơn thu nhập của mình. Trong khi đó, các ngành, khu vực không phải chính phủ ( tư
nhân, hộ gia đình, khu vực doanh nghiệp,…) thường chi tiêu ít hơn tổng thu nhập của họ.
Bởi vì, họ có xu hướng để dành ( khuynh hướng tiết kiệm cận biên MPS>0). Trong điều
kiện bình thường, tức là nền kinh tế đang phát triển theo chiều hướng tốt, thì các khoản tiết
kiệm đó được chuyển sang khu vực doanh nghiệp để đầu tư, góp phần tạo nên thành phần
của tổng cầu. Nhưng trong thời kỳ suy thoái, doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư vì mục
tiêu an toàn, không mạo hiểm họ không muốn đầu tư thêm nữa vì không có khả năng thu
được lợi nhuận.
Xuất phát từ giả thiết thứ nhất, Keynes đã cho rằng nền kinh tế suy thoái vì tạm thời
không có đủ cầu do cung đang dư thừa, tức là thiếu cầu hiệu lực. Do đó bài toán sẽ được
giải quyết nếu xuất hiện một lượng cầu hiệu lực đủ lớn.
Tương tự như vậy, xuất phát từ giả thiết thứ hai của Keynes, rằng chỉ có chính phủ
mới có khả năng chi tiêu vượt mức – dựa trên ý chí của mình, ngay cả khi nền kinh tế đang

suy thoái ( khiến các khu vực khác như các doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình, các nhà đầu
tư hoàn toàn thoái chí, không muốn chi tiêu, không muốn đầu tư sản xuất). Trên cơ sở đó,
Keynes đã đề xuất một phương án mà về căn bản theo nguyên lý sau: Dịch chuyển sức mua
từ khu vực dân cư và tư nhân vào tay chính phủ nhằm tăng cầu hiệu lực, đưa nền kinh tế ra
khỏi cái bẫy đình đốn do thiếu sức mua. Tóm lại, với quan điểm trọng cầu, Keynes đã xây
dựng nên mô hình kinh tế vĩ mô, trong đó yếu tố trung tâm là vai trò điều chỉnh, can thiệp
của nhà nước thông qua các giải pháp kích cầu để tác động vào các khuynh hướng tâm lý
chung của xã hội: khuynh hướng tiêu dùng, khuynh hướng tiết kiệm, khuynh hướng ưa
chuộng tiền mặt… với mục đích là để chống đỡ khủng hoảng, thất nghiệp. Đây chính là
nền tảng của tư tưởng kích cầu.
5
Vậy kích cầu chính là biện pháp đẩy mạnh chi tiêu ròng của chính phủ ( hay còn gọi
là tiêu dùng công cộng ) để làm tăng tổng cầu, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Tư tưởng này của học thuyết Keynes dần dần trở thành kim chỉ nam cho các hoạt
động kinh tế của các nước trên toàn thế giới. Theo thời gian cùng với một loạt các công cụ
điều hành chính phủ khác, nó đã trở thành phương tiện cơ bản của các chính sách can thiệp,
và là phương án tối ưu cho các nước trong điều kiện nền kinh tế suy thoái rơi vào khủng
hoảng. Biểu hiện là lý thuyết của Keynes đã có ảnh hưởng sâu rộng trong hệ tư tưởng của
kinh tế tư sản và được vận dụng một cách rộng rãi ở nhiều nước Tư Bản phương Tây và ở
Mỹ trong những năm 40, 50 và đầu những năm 60 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, đến đầu thập
niên 60 của thế kỷ 20 Milton Freidman – một nhà lý thuyết kinh tế Mỹ có ảnh hưởng lớn
nhất trong nửa sau thế kỷ 20. Nếu nói học thuyết Keynes là một cuộc cải cách lớn lao của
kinh tế học. Và đương nhiên nó được tiếp nối bằng một cuộc chống cải cách, trong thời
gian này một số nhà kinh tế đã đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi kinh tế học cổ
điển trong giai đoạn từ năm 1950-2000, nhưng không ai có ảnh hưởng lớn như Freidman
(Theo thời đại mới số 10/tháng 3/ năm 2007). Ông được đánh giá cao như vậy bởi những tư
tưởng mới mẻ của ông, ông nhận diện được nhược điểm của trường phái Keynes. Điều này
thể hiện rõ nét ở lời nhận xét mà ông đưa ra năm 1962 trong một tác phẩm kinh điển bảo vệ
nền kinh tế thị trường, rằng các chính sách này đều biến thái theo chiều hướng đơn giản
hóa. Tùy tiện và bị lạm dụng, theo một phiên bản “ phân tích kiểu Keynes thô sơ

”( Freidman 1962, trang 79, xuất bản năm 2002). Qua đó chi tiêu chính phủ luôn được coi
là phương tiện cứu rỗi, mà không còn cân nhắc nhiều đến thực trạng nền kinh tế mà trong
đó là những giả thuyết đầu tiên được xác lập. Đây là cách nhìn nhận đúng đắn của
Friedman. Bởi ông đã có cách nhìn đúng đắn vào thực tế.
Thật vậy, trên thực tế việc tăng chi tiêu chính phủ với mục tiêu là cứu nguy nền kinh
tế đã mang lại nhiều thuận lợi cho chính phủ, đó là: bành trướng ngân sách, từ đó củng cố
và phát huy sức mạnh và quyền lực chính trị của chính phủ. Không những thế chính phủ
không phải thực hiện những cải cách mà rất có thể đó là những bước đi sai lầm sẽ gây hậu
quả nghiêm trọng cho nền kinh tế và bản thân chính phủ và giới quan liêu như thể chế, luật
pháp. Tăng chi tiêu chính phủ còn được lòng dân chúng vì nó giữ cho giá nguồn lực ở mức
cao ( tiền lương lao động và lãi suất được duy trì ). Và một điều quan trọng là tính hiệu quả
6
kinh tế của các khoản chi tiêu đó sẽ lan tỏa hiệu ứng số nhân nổi tiếng của Keynes chứ
không phải bản thân đối tượng được chi tiêu.
Xét tới các trường phái kinh tế không ủng hộ tính hiệu quả của thị trường cho rằng
chính sách kiểu Keynes có thể làm giảm cơn đau của nền kinh tế đang suy thoái về mặt xã
hội, nhưng đổi lại, nó kéo dài thời gian hồi phục nền kinh tế. Lập luận này cũng dựa trên
những kinh nghiệm từ cuộc đại suy thoái 1929-1933, nhưng diễn giải dưới một góc nhìn
khác. Họ cho rằng việc thắt chặt tiền tệ quá lâu của cục dự trữ liên bang Mỹ đã khiến lãi
suất bị giữ ở mức cao. Thứ hai, các chuơng trình cứu trợ xã hội to lớn thời đó đã khiến tiền
lương bị giữ ở mức cao tương đối, khiến các doanh nghiệp thời kỳ suy thoái rất khó tiếp
cận nguồn lao động rẻ để phục hồi sản xuất.
Đây là thực tế mà các nước đã phải trải qua, chính phủ và những nhà điều
hành đất nước phải lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho mình. Từ đó các chính phủ hiện đại
đều sử dụng chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng, cắt giảm lãi suất
trong các giải pháp chống suy thoái. Tuy nhiên, các chương trình an sinh xã hội và sức
mạnh của công đoàn ít khi làm giá lao động giảm đáng kể. Đây là một đánh đổi trên thực
tiễn: nỗi đau được xoa dịu thì buộc phải kéo dài.
Trên đây là toàn bộ nguồn gốc cho tư tưởng kích cầu của các chính phủ khi đất nước
rơi vào tình trạng khủng hoảng kể từ sau cuộc đại khủng hoảng 1929-1933 tới nay.

1.1.2 Khái niệm kích cầu
Vậy kích cầu được hiểu là biện pháp đẩy mạnh chi tiêu ròng của chính phủ ( hay còn
gọi là tiêu dùng công cộng ) để làm tăng tổng cầu, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Biện pháp kích cầu cụ thể có thể là giảm thuế hoặc tăng chi tiêu hoặc cả hai. Kích
cầu chỉ được dùng khi nền kinh tế lâm vào trì trệ hay suy thoái, đang cần vực dậy. Trong
hai loại biện pháp này, biện pháp thứ hai được cho rằng có hiệu suất kích thích tổng cầu
cao hơn.
Nguyên tắc kích cầu: Theo nhà kinh tế Lawrence Summers, để biện pháp kích cầu
có hiệu quả thì việc thực hiện nó phải đảm bảo 3 nguyên tắc:
1. Đúng lúc (kịp thời – timely)
2. Trúng đích (đúng đối tượng – targeted)
3. Vừa đủ (ngắn hạn - temporary)
7
Để áp dụng biện pháp này đạt được hiệu quả cao nhất thì chính phủ các nước và các
nhà lãnh đạo phải chú ý thực hiện theo đúng 3 nguyên tắc nói trên.
Phần tiếp theo chúng ta sẽ nghiên cứu lý thuyết về tổng cầu và kích cầu.
1.2 Lý thuyết về tổng cầu và kích cầu
1.2.1 Chính sách tài khóa
Như chúng ta thấy, trước sự suy thoái của nền kinh tế, biện pháp mà được hầu hết
các chính phủ các nước sử dụng đó là chính sách tài khóa mở rộng: tăng chi, giảm thu với
mục tiêu cuối cùng là đưa sản lượng về mức sản lượng tiềm năng.
Trước khi tìm hiểu về vấn đề này, chúng ta sẽ tìm hiểu xem tổng cầu là gì? chính
sách tài khóa là gì? Tại sao và khi nào chính phủ chúng ta sẽ áp dụng phương pháp đó.
Theo định nghĩa trong sách giáo trình kinh tế vĩ mô (NXB Giáo dục – 2000 của Việt Nam
hiện nay, trang 79) thì “ tổng cầu là toàn bộ số lượng hàng hóa, dịch vụ mà các hộ gia đình
và các doanh nghiệp dự kiến chi tiêu, tương ứng với mức chi tiêu của họ”. Còn “chính sách
tài khóa là việc chính phủ sử dụng thuế khóa và chi tiêu công cộng để điều tiết mức chi tiêu
chung của nền kinh tế ”. Nguyên lý thì như vậy, nhưng chúng ta phải áp dụng thế nào cho
phù hợp và đạt được kết quả cao nhất, đó chính là câu hỏi khó nhất mà các nhà lãnh đạo
các nước gặp phải. Và họ phải nghiên cứu để đưa ra các phương án giải quyết phù hợp với

tình hình biến động của nền kinh tế thị trường. Sau đây, chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể lý
thuyết này trong nền kinh tế.
Giả sử nền kinh tế đang lâm vào tình trạng suy thoái và thất nghiệp. Các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư sẽ không muốn đầu tư thêm, còn người tiêu dùng cũng không muốn
chi tiêu thêm nữa. Lúc này tổng cầu ở mức rất thấp. Trong hoàn cảnh này để mở rộng tổng
cầu chính phủ phải tăng chi tiêu hoặc giảm thuế, nâng cao mức chi tiêu chung của nền kinh
tế làm cho sản lượng tăng thêm và mức việc làm có thể đầy đủ có thể được khôi phục.
Xét trên mô hình kinh tế, với: AD là đường tổng cầu
Y là mức sản lượng
P là mức giá
Mức sản lượng Y
1
– tương ứng với đường tổng cầu AD
1
Mức sản lượng Y
0
– tương ứng với đường tổng cầu AD
0
– Đây là mức sản lượng
tiềm năng trên thị trường cân bằng, tức là cung = cầu.
8
Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái và thất nghiệp, mức sản lượng trên thị
trường lúc này là Y
1
< Y
0
.
Nền kinh tế đang rơi vào tình trạng suy thoái với mức cung < mức cầu, điều này làm
cho giá cả hàng hóa tăng lên cao dẫn tới áp lực suy thoái đang đe dọa tới nền kinh tế và nó
đòi hỏi chính phủ phải ra tay hành động để làm tăng tổng cầu thông qua tăng chi tiêu chính

phủ, tăng mua sắm hàng hóa, dịch vụ hoặc giảm thuế. Nếu làm được điều này thì đường
tổng cầu AD
1
sẽ dịch dần lên trên, và khi AD
1
tiến đến AD tức là Y
1
dần tới Y*, sản lượng
thực tế sẽ bằng sản lượng tiềm năng. Lúc này thị trường ổn định, thất nghiệp sẽ giảm và
điều tất nhiên là tỉ lệ thất nghiệp thực tế sẽ trở về với tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên. Như vậy là
vấn đề đã được giải quyết.
Y
P
P0
P1
y
1
y
0
E
0
AS
E1
AD
AD
0
9
Nhưng trên thực tế, khi thực hiện chính sách tài khóa mở rộng cần lưu ý
đó là: Khi AD
1

tiến đến AD thì chính phủ phải dừng thực hiện chính sách này ngay vì nếu
tiếp tục thực hiện thì đường cầu AD
1
sẽ dần tiến tới AD
2
, khi đó Y
1
tiến tới Y
2
> Y*. Trong
trường hợp này, mức sản lượng thực tế cao hơn mức sản lượng tiềm năng, nền kinh tế bị áp
lực cao của lạm phát. Biện pháp áp dụng để giải quyết vấn đề mà các chính phủ đã sử dụng
đó là: giảm chi tiêu và tăng thuế, nhờ đó mức chi tiêu chung giảm đi, sản lượng sẽ giảm
theo và lạm phát chững lại.
Theo lý thuyết trên chúng ta thấy rằng nền kinh tế luôn biến động và ít khi ở trạng
thái hoàn hảo ( cung = cầu ). Do vậy, chính phủ phải tác động vào nền kinh tế bằng các
chính sách của mình để điều chỉnh nó cho phù hợp và đạt hiệu quả tối ưu.
Xét trong mô hình nền kinh tế giản đơn như trong lý thuyết của Keynes thì chính
sách tài khóa có thể là phương thuốc hữu hiệu để ổn định nền kinh tế. Tuy nhiên trong thực
tế, chính sách tài khóa không có đủ sức mạnh đến như vậy, đặc biệt là trong nền kinh tế
hiện đại. Do đó mà các nền kinh tế thị trường luôn không ổn định, chu kỳ kinh doanh chưa
được khắc phục hoàn toàn. Trước khi nghiên cứu những vấn đề áp dụng chính sách tài khóa
Y
P
P
2
P
0
y
0

y
2
AS
AD2
AD
0
0
10
trong thực tiễn, chúng ta cùng xem xet một cơ chế đặc biệt của chính sách này. Đó là cơ
chế ổn định tự động.
Thật vậy, hệ thống tài chính hiện đại có những yếu tố tự ổn định mạnh mẽ, đó là:
Những thay đổi tự động về thuế. Hệ thống thuế hiện đại bao gồm thuế thu nhập lũy tiến với
thu nhập cá nhân và lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi thu nhập quốc dân tăng lên, số thu về
thuế tăng theo, và ngược lại khi thu nhập giảm, thuế giảm ngay mặc dù Quốc hội chưa kịp
điều chỉnh thuế suất. Vì vậy, hệ thống thuế có vai trò như là một bộ tự ổn định tự động
nhanh và mạnh.
Yếu tố thứ hai sau tự ổn định sau thuế chính là hệ thống bảo hiểm. Bởi trong quá
trình sản xuất kinh doanh, quản lý xã hội, cải tạo và chinh phục tự nhiên, dù có tri thức
ngày càng cao, con người vẫn phải đối mặt nhiều hơn với khả năng xảy ra tai họa từ nhiều
phía, do chính bản thân con người, do những phương tiện thiết bị của con người tạo ra.
Trước mối đe dọa thường ngày như vậy, các cá nhân, doanh nghiệp có thể thực hiện biện
pháp tự bảo hiểm, nhưng tự bảo hiểm là biện pháp hiệu quả thấp và không kinh tế. Do vậy
tổ chức và cá nhân có nhu cầu được bảo hiểm và sử dụng nó để chia sẻ khi rủi ro xảy ra
thông qua hoạt động của các công ty bảo hiểm. Trong nền kinh tế hiện nay, hệ thống bảo
hiểm bao gồm bảo hiểm thất nghiệp và các chuyển khoản mang tính chất xã hội khác. Hệ
thống này hoạt động khá nhạy cảm.
Điều này được hiểu như sau: Khi mất việc hay thất nghiệp thì người thất nghiệp sẽ
được nhận một khoản trợ cấp – đó là trợ cấp thất nghiệp từ nhà nước. Và đương nhiên là
khi có việc làm thì khoản trợ cấp này sẽ không còn nữa. Như vậy, hệ thống bảo hiểm bơm
tiền vào và rút tiền ra khỏi nền kinh tế, ngược lại chiều hướng của chu kỳ kinh doanh góp

phần ổn định hệ thống kinh tế. Tuy nhiên, những nhân tố ổn định tự động chỉ có tác dụng
làm giảm một phần các dao động của nền kinh tế, mà không xóa bỏ hoàn toàn những dao
động đó. Phần còn lại đặt trên vai các chính sách tài chính và tiền tệ chủ động của chính
phủ.
Không những vậy, khi chính phủ áp dụng chính sách tài khóa vào trong mô hình
nền kinh tế của từng nước thì lại gặp phải một số khó khăn như sau:
Tính bất định: Chính phủ không nắm chắc về những giá trị của những thông số chủ
chốt của nền kinh tế như: số nhân chi tiêu m; số nhân tổng cầu trong nền kinh tế đóng m’;
11
số nhân tổng cầu của nền kinh tế mở m”; khuynh hướng tiêu dùng biên MPC…Từ đó dẫn
tới sự sai lệch về số nhân tổng cầu, sai lệch về mức thay đổi trong chính sách tài khóa. Hơn
nữa, thực thi chính sách tài khóa cần một thời gian khá dài chúng ta mới thu được kết quả.
Tức là mức sản lượng thực tế đạt tới mức sản lượng tiềm năng.
Tính miễn cưỡng các nhu cầu tự định: Thực tế những thay đổi trong chính sách tài
khóa có thể đưa đến những tác động miễn cưỡng khác ( giảm xuất khẩu ròng, thoái lui đầu
tư ). Nếu chính phủ không xác định được những yêu cầu miễn cưỡng này thì sử dụng chính
sách tài khóa sẽ không mang lại những hiệu quả như mong muốn.
Tính chậm trễ về mặt thời gian: Đây cũng chính là mặt hạn chế của chính sách tài
khóa, mặc dù chính sách tài khóa mang lại những hiệu quả mong đợi cho nền kinh tế các
nước nhưng nó lại đòi hỏi một khoảng thời gian khá dài. Nó không trực tiếp tác động tới
nền kinh tế ngay lập tức mà nó tác động dần dần, từ từ tới các nhân tố của nền kinh tế cho
tới khi nền kinh tế đạt mức cân bằng. Chúng ta có thể phân độ trễ của chính sách ra làm hai
loại, đó là độ trễ bên trong và độ trễ bên ngoài.
Độ trễ bên trong: Đây là khoảng thời gian bắt đầu từ lúc xuất hiện những thông tin
về những cú sốc tác động vào nền kinh tế cho đến khi các biện pháp được đưa ra để giải
quyết phản ứng lại cú sốc đó. Độ trễ này xuất hiện bởi khi nền kinh tế có sự biến đổi thì đòi
hỏi các nhà hoạch định chính sách cần có thời gian để nhận thức được rằng cú sốc này đã
xảy ra và sau đó nghiên cứu đề ra các biện pháp, lối đi phù hợp cho từng trường hợp, thời
kỳ.
Độ trễ bên ngoài: Bao gồm quá trình phổ biến, thực thi chính sách cho tới khi phát

huy ảnh hưởng đối với nền kinh tế. Loại độ trễ này xuất hiện vì chính sách không tác động
ngay lập tức tới chi tiêu, thu nhập và việc làm.
Với chính sách tài khóa, cả hai độ trễ khá dài, phụ thuộc vào các yếu tố chính trị và
cơ cấu tổ chức bộ máy. Chính vì vậy những quyết định đưa ra không đúng lúc có thể làm
rối loạn thêm nền kinh tế thay vì ổn định nó.
Trên thực tế, chính sách tài khóa thường được thực hiện thông qua các dự án công
cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển việc làm và trợ cấp xã hội. Thực tế cho thấy, ngoài
một số dự án công cộng thực hiện thành công, đa số các dự án tỏ ra kém hiệu quả kinh tế.
2.2 Tác động của chính sách tài khóa
12
Khi chính phủ tăng chi tiêu về hàng hóa và dịch vụ một lượng ∆G, tổng cầu của nền
kinh tế tăng lên làm dịch chuyển đường IS sang phải. Kết quả tổng hợp là làm cho thu nhập
tăng từ Y
1
lên Y
2
và lãi suất theo đó cũng tăng từ i
1
lên i
2
.
Khi chính phủ giảm thuế 1 lượng là ∆T,thay đổi của chính sách này làm tăng tổng
cầu.Sự gia tăng AD làm dịch chuyển IS sang phải,kết quả tổng hợp là thu nhập tăng từ Y
1
lên Y
2
và lãi suất tăng từ i
1
lên i
2

.
Y
P
P0
P1
y
1
y
0
E
0
E1
AD
AD
0
0
AS
13
1.2.3 Chính sách tiền tệ mở rộng
1.2.3.1 Định nghĩa chính sách tiền tệ
Kinh tế thị trường thực chất là 1 nền kinh tế tiền tệ. Ở đó bao giờ chính sách tiền tệ
cũng là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của nhà nước, bên
cạnh chính sách tài khóa, chính sách phân phối thu nhập, chính sách đối ngoại…
Ngân hàng Trung Ương sử dụng chính sách tiền tệ nhằm gây ra sự mở rộng hay thắt
chặt lại trong việc cung ứng tiền tệ, để ổn định giá trị đồng bản tệ, đưa sản lượng và việc
làm của quốc gia đến mức mong muốn. Trong một quãng thời gian nhất định nào đó, chính
sách tiền tệ của một quốc gia có thể được hoạch định theo 1 trong 2 hướng : Chính sách
tiền tệ mở rộng và chính sách tiền tệ thắt chặt.
Chính sách tiền tệ mở rộng: nhằm tăng lượng tiền cung ứng, khuyến khích đầu tư
mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm. Trường hợp này, chính sách tiền tệ nhằm chống

suy thoái kinh tế, chống thất nghiệp.
Chính sách tiền tệ thắt chặt: nhằm giảm lượng tiền cung ứng, hạn chế đầu tư, kìm
hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế, trường hợp này chính sách tiền tệ nhằm chống
lạm phát.
Y
P
P
2
P
0
y
0
y
2
AS
AD2
AD
0
0
14
Do vậy, chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay
ngân hàng Trung Ương để đạt được những mục tiêu đặc biệt như kiềm chế lạm phát, duy
trì ổn định tỉ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế.
1.2.3.2 Các công cụ chính sách tiền tệ mở rộng
Ngân hàng Trung Ương điều chỉnh mức cung tiền và các tỉ lệ lãi suất bằng
nhiều công cụ khác nhau nhằm tác động vào lượng tiền và số nhân tiền tệ: mức cung tiền
hoặc lãi suất.
1.2.3.2.1 Nghiệp vụ thị trường mở
Là việc các ngân hàng trung ương mua và bán các chứng khoán có giá trị, mà chủ
yếu là tín phiếu kho bạc nhà nước, nhằm làm thay đổi lượng tiền cung ứng. Ngân hàng

trung ương mua bán chứng khoán trên thị trường sẽ làm thay đổi cơ số tiền tệ (tiền đang
lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng và tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng). Đó là nguồn
gốc chính gây nên sự biến động trong cung ứng tiền tệ. Do đó trong trường hợp này, ngân
hàng trung ương sẽ mua chứng khoán làm tăng cơ số tiền tệ, qua đó làm tăng lượng tiền
cung ứng.
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ quan trọng nhất của ngân hàng trung ương trong
việc điều tiết lượng tiền cung ứng vì ngân hàng trung ương có thể kiểm soát được hoàn
toàn lượng nghiệp vụ thị trường tự do, linh hoạt và chính xác, sử dụng được ở nhiều mức
độ, nhanh chóng, ít tốn kém về chi phí và thời gian…
1.2.3.2.2 Chính sách chiết khấu
Chính sách chiết khấu là công cụ của ngân hàng trung ương trong việc thực thi chính
sách tiền tệ, bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh. Khi ngân hàng
trung ương cho vay các ngân hàng kinh doanh làm tăng thêm lượng tiền dự trữ cho hệ
thống ngân hàng, từ đó làm gia tăng lượng tiền cung ứng. Ngân hàng trung ương kiểm soát
công cụ này chủ yếu bằng cách tác động đến giá cả khoản vay (lãi suất cho vay tái chiết
khấu).
Do đó trong trong trường hợp này, ngân hàng trung ương giảm lãi suất cho vay tái
chiết khấu, giá của các khoản vay rẻ hơn, khuyến khích cho vay các ngân hàng kinh doanh,
làm cho khả năng cho vay của ngân hàng kinh doanh đối với nền kinh tế tăng lên qua đó
lượng tiền cung ứng tăng lên.
15
Chính sách chiết khấu là 1 công cụ quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ
của ngân hàng trung ương. Nó không chỉ điều tiết lượng tiền cung ứng, mà còn để thực
hiện vai trò người cho vay cuối cùng đối với các tổ chức tín dụng và tác động đến việc điều
chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế.
1.2.3.2.3 Dự trữ bắt buộc
Thực chất là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ lại, mà không dùng cho vay
hoặc đầu tư, mức dự trữ này do ngân hàng trung ương quy định bằng một tỉ lệ nhất định so
với tổng số tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng. Ngân hàng trung ương sử
dụng nguồn dự trữ bắt buộc để tác động đến lượng tiền cung ứng trên 2 phương diện:

Thứ nhất: Tỉ lệ dự trữ bắt buộc tác động lên cơ chế tạo tiền gửi của các ngân hàng
thương mại:
Tiền gửi mới được tạo ra = Tiền dự trữ ban đầu x (1 / tỉ lệ dự trữ bắt buộc)
Trong đó: 1/tỉ lệ dự trữ bắt buộc là hệ số nhân tiền tệ với 2 giả thiết:
Các ngân hàng thương mại không có tiền dự trữ thừa so với tỉ lệ dự trữ bắt buộc mà
ngân hàng trung ương yêu cầu.
Các khoản tiền gửi do các ngân hàng thương mại tạo ra đều được giữ lại trong hệ
thống ngân hàng.
Do vậy ngân hàng trung ương quyết định tăng hoặc giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm
cho hệ số tạo tiền thu hẹp hoặc tăng lên.
Thứ hai: Tỉ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng
thương mại. Tiền dự trữ bắt buộc đều phải mở tài khoản và gửi tại ngân hàng trung ương và
không được hưởng lãi, dù các ngân hàng thương mại vẫn phải trả lợi tức cho các khoản tiền
gửi ở ngân hàng mình.
Do vậy trong trường hợp này: Ngân hàng trung ương sẽ giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc,
các ngân hàng thương mại có cơ hội giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá các
khoản vay rẻ hơn, tăng khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại và theo đó lượng
tiên cung ứng tăng lên.
Tuy nhiên hiện nay công cụ dự trữ bắt buộc ít được sử dụng trong quá trình thực thi
chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương ví nó phức tạp, kém linh hoạt, ảnh hưởng đến
lợi nhuận của các ngân hàng kinh doanh.
16
1.2.4 Tác động của chính sách tiền tệ mở rộng
1.2.4.1 Tác động của tăng cung tiền tới lãi suất cân bằng
Ban đầu mức cung tiền ở mức MS
0
và lãi suất cân bằng là i
0
Khi ngân hàng tăng lượng tiền cung ứng lên MS
1

và lãi suất cân bằng giảm xuống i
1

Cầu tiền ít co giãn với lãi suất, do đó khi tăng cung tiền tại một mức thu nhập nhất
định làm giảm lãi suất đáng kể. Khi lãi suất giảm sẽ kích thích đầu tư tăng. Khi chi tiêu cho
đầu tư tăng, thu nhập sẽ được mở rộng theo số nhân.
1.2.4.2 Tác động của chính sách tiền tệ mở rộng tới thu nhập
Tăng đầu tư làm dịch chuyển đường chi tiêu lên phía trên và tạo ra mức sản lượng
cân bằng cao hơn.
Y
i
i
2
i
1
Y
1
Y
2
LM
0
IS
2
IS
1
B
A
17
Sản lượng tăng từ Y
0

đến Y
1
1.2.4.3 Chính sách tiền tệ mở rộng trong hệ trục mức giá - sản lượng
Y
i
i
2
i
1
Y
1
Y
2
LM
0
IS
2
IS
1
B
A
18
Tăng cung tiền làm tăng tổng chi tiêu tại mỗi mức giá. Vì mức sản lượng cân
bằng tại mỗi mức giá cân bằng cho trước, đường tổng cầu dịch chuyển sang bên phải. Sự
dịch chuyển của đường tổng cầu được chuyển thành sự gia tăng của tổng sản lượng từ Y
0
đến Y
1
.
Do vậy khi nền kinh tế có các nguồn lực chưa được sử dụng và giá cả cứng nhắc,

tăng cung tiền thường có tác dụng kích thích nền kinh tế tạo ra mức sản lượng cao hơn.
1.2.4.4 Hiệu quả của chính sách tiền tệ
Có 3 nhân tố cơ bản quyết định sản lượng thay đổi bao nhiêu khi tăng cung tiền một
lượng nhất định:
Thứ nhất : hệ số co giãn của cầu tiền với lãi suất
Thứ hai : sự nhạy cảm của đầu tư với lãi suất
Thứ ba : giá trị của số nhân chi tiêu
Lượng tiền
i
i
0
i
1
0
MS
0
MS
1
MD
0
19
Y
AE
0
45
0
EA
1
EA
0

Y
1
Y
0
P
0
Y
1
Y
0
AS
AD
0
AD
1
Y
20
Lượng tiền
0
I
0
I
0
I
1
i
0
i
1
I

MD
MS
0
MS
1
A
B
21
Khi cầu tiền co giãn mạnh với lãi suất ( đường cầu tiền tương đối thoải) thì việc tăng
cung tiền sẽ ít hiệu quả trong việc tăng sản lượng. Cầu tiền co giãn mạnh với lãi suất, tăng
cung tiền có ảnh hưởng nhỏ đến lãi suất. Lãi suất giảm nhẹ chỉ có ảnh hưởng gia tăng nhỏ
đối với đầu tư (A)
Khi đầu tư rất ít nhạy cảm với lãi suất (đường tổng cầu rất dốc) thì việc tăng cung
tiền sẽ ít hiệu quả trong việc tăng sản lượng. Do đó việc giảm lãi suất khi tăng cung tiền chỉ
ảnh hưởng nhỏ đến đầu tư (B)
Khi đầu tư tăng ít khiến đường chi tiêu dịch chuyển ít lên phía trên,mức sản lượng
tăng lên ít (C)
Tăng cung tiền ảnh hưởng nhỏ đến lãi suất,lãi suất giảm ít sẽ ảnh hưởng nhỏ đến
đầu tư,kéo theo việc tăng cung tiền chỉ có ảnh hương nhỏ đến sản lượng (D)
1.2.5 Sự tương tác giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
1.2.5.1 Phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều nguồn lực chưa được sử dụng và thất nghiệp
cao, chính phủ có thể sử dụng hỗn hợp giữa chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền
tệ nới lỏng để cho phép cung tiền tăng và do đó giữ lãi suất không thay đổi.
Y
0
Y
0
Y
0

Y
1
P
0
45
0
EA
1
EA
0
AS
AD
0
AD
1
P
Y
0
Y
1
C D
22
Các nhà kinh tế gọi chính sách tiền tệ như vậy là chính sách thích ứng bởi vì chính
sách tiền tệ thích ứng với sự thay đổi của chính sách tài khóa.
Tuy nhiên nếu chính sách tiền tệ không thay đổi (cung tiền không đổi) thì việc tăng
chi tiêu của chính phủ sẽ làm tăng cầu tiền, và để cho cầu tiền bằng cung tiền cố định thì
phải tăng lãi suất. Khi tăng lãi suất sẽ làm giảm chi tiêu cho đầu tư và giảm tổng cầu. Sự
suy giảm tổng cầu vì lãi suất tăng khi chính phủ thực hiện chính sách tài khóa mở rộng
được gọi là hiệu ứng lấn át. Ảnh hưởng mở rộng đến nền kinh tế sẽ nhỏ hơn so với khi áp
dụng chính sách thích ứng.

1.2.5.2 Sự khác nhau giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Khi sử dụng chính sách tiền tệ, chúng làm giảm lãi suất và kích thích đầu tư. Như
vậy mức thu nhập trong tương lai sẽ cao hơn. Sử dụng chính sách tiền tệ chính phủ có thể
theo đuổi cả 2 mục tiêu : việc làm và tăng trưởng cao.
Khi sử dụng chính sách tài khóa với một mức cung tiền cố định,khi thu nhập tăng,
lãi suất sẽ tăng để giữ cho cầu tiền đúng bằng cung tiền không thay đổi
Do vậy chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ đều có thể được sử dụng để đưa
nền kinh tế về mức toàn dụng nhân công, chúng lại có ảnh hưởng khác nhau đến tăng
trưởng kinh tế trong tương lai.
1.2.5.3 Sự khác nhau về hiệu quả của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Khi nền kinh tế lâm vào suy thoái trầm trọng, chính sách tiền tệ không có hiệu
quả.Việc tăng cung tiền có thể ít ảnh hưởng đến lãi suất, và giảm lãi suất có thể chỉ ảnh
hưởng nhỏ đến đầu tư.
Tăng thâm hụt ngân sách-giảm thuế ít hơn giảm chi tiêu, hoặc tăng chi tiêu nhiều
hơn tăng thuế sẽ làm suy yếu nền kinh tế. Bởi vì chính phủ sẽ phải dựa vào thị trường vốn
để tài trợ thâm hụt và đầu tư tư nhân sẽ bị lấn át. Tác động ròng của chính sách tài khóa cần
tính đến hiệu ứng này: nếu tăng chi tiêu được tài trợ bằng vay nợ và làm lấn át đầu tư tư
nhân một lượng tương ứng thì chính sách tài khóa không hề có tác động kích thích nền kinh
tế.
23
1.2.6 Cân đối ngân sách và tác động tiềm ẩn đến nền kinh tế vĩ mô
Đã từ lâu, thuế và ngân sách nhà nước đã được xem xét trong các kế hoạch phát
triển kinh tế trung và ngắn hạn. Song các công cụ này chỉ hoạt động trong khuôn khổ của
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mang nặng tính chất “cấp phát và giao nộp” , “thu để
chi”…chưa thật sự là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Mặt khác, do kết quả của nền
kinh tế suy thoái, trì trệ và một phương pháp quản lý yếu kém, ngân sách nhà nước luôn
trong tình trạng thâm hụt nặng nề, thu không đủ chi, vay nợ chồng chất. Và khi nền kinh tế
chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nền tài chính
quốc gia cũng được đổi mới. Việt Nam cũng tương tự như vậy.
Trong phần này, chúng tôi điểm qua tình hình ngân sách của Việt Nam thông qua

việc xem xét cơ cấu thu chi trong những năm vừa qua và phân tích tình hình tác động có
thể có của gói kích cầu tới cán cân ngân sách và nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam giai đoạn
2008-2009.
Cụ thể hơn, chúng ta sẽ nghiên cứu các tác động qua lại giữa các vấn đề về chi tiêu,
vấn đề thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế của nhà nước.Trong nhiều năm qua đã có
nhiều nghiên cứu kinh tế, cả lý thuyết lẫn thực nghiệm, tập trung xem xét vai trò của chi
tiêu công đối với tăng trưởng kinh tế cũng như các nhà hoạch định chính sách đôi khi
không thống nhất với nhau về việc liệu chi tiêu chính phủ có vai trò thúc đẩy hay làm chậm
tăng trưởng kinh tế. Những người ủng hộ quy mô lớn của chi tiêu chính phủ cho rằng, các
chương trình chi tiêu của chính phủ sẽ giúp cung cấp các hàng hóa công cộng như cơ sở hạ
tầng và giáo dục. Họ cũng cho rằng sự gia tăng chi tiêu chính phủ có thể đẩy nhanh tăng
trưởng kinh tế thông qua việc làm tăng sức mua của người dân như lý thuyết của trường
phái Keynes đã chỉ ra.
Tuy nhiên, những người ủng hộ quy mô nhỏ của chi tiêu chính phủ lại có quan điểm
ngược lại. Họ giải thích rằng, chi tiêu chính phủ quá lớn và sự gia tăng chi tiêu chính phủ
sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế, bởi vì nó sẽ làm dịch chuyển nguồn lực từ khu vực sản
xuất hiệu quả trong nền kinh tế sang khu vực chính phủ kém hiệu quả. Họ cũng chỉ ra rằng,
sự mở rộng chi tiêu công sẽ làm phức tạp thêm những nỗ lực thực hiện các chính sách thúc
đẩy tăng trưởng. Ví dụ như những chính sách cải cách thuế và an sinh xã hội, bởi vì những
24
người chỉ trích có thể sử dụng sự thâm hụt ngân sách làm lý do để phản đối những chính
sách cải cách nền kinh tế này.
Thật vậy, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong gần một thập kỷ qua phần nhiều
dựa vào các luồng chi tiêu kích cầu. Chủ yếu thông qua ba nguồn: chi tiêu chính phủ; Đầu
tư trực tiếp nước ngoài; Tăng trưởng tín dụng( cung tiền ).
Tăng chi tiêu chính phủ và mở rộng tín dụng doanh nghiệp, một mặt giúp nền kinh
tế tăng trưởng tạm thời trong ngắn hạn nhưng lại tạo ra những nguy cơ bất ổn lâu dài như
lạm phát và rủi ro tài chính do sự thiếu hiệu quả của các khoản chi tiêu công và thiếu cơ
chế giám sát đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của hệ thống tài chính.
Giờ chúng ta sẽ nghiên cứu tới tác động của chính sách tài khóa tới vấn đề thâm hụt

ngân sách. Chính sách tài khóa có liên quan chặt chẽ tới vấn đề thâm hụt ngân sách và thoái
lui đầu tư. Trước hết ta sẽ nghiên cứu về vấn đề thâm hụt ngân sách để thấy được tầm ảnh
hưởng của nó tới nền kinh tế chung của đất nước. Chính sách tài khóa thường thể hiện
trong quá trình lập, phê chuẩn và thực hiện ngân sách nhà nước. Thật vậy, chi tiêu chính
phủ về hàng hóa và dịch vụ là bộ phận chính của chi ngân sách nhà nước, điều này cũng
tương tự như là thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước là
tổng các kế hoạch chi tiêu và thu nhập hằng năm của chính phủ, bao gồm các khoản thu
( chủ yếu từ thuế ) và các khoản chi ngân sách.
Hầu hết ngân sách của các quốc gia trên thế giới đều phải đương đầu với vấn đề
thâm hụt ngân sách. Vậy để hiểu rõ hơn về thâm hụt ngân sách thì ta nên đi vào công thức
sau đây:
Gọi B là hiệu số giữa thu và chi ngân sách, ta có :
B = T – G
( Với T là thuế, G là chi tiêu của chính phủ )
Khi B > 0 ta có thặng dư ngân sách
Khi B = 0 ta có cân bằng ngân sách
Khi B < 0 ta có thâm hụt ngân sách
Theo quan điểm trong lý thuyết tài chính hiện đại, ngân sách nhà nước không nhất
thiết phải cân bằng. Vấn đề là phải quản lý nguồn thu và chi sao cho ngân sách không bị
25

×