Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Trầm cảm và tự tử ở nam giới pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.12 KB, 4 trang )

Trầm cảm và tự tử ở nam giới

Trầm cảm là gì ?
Trầm cảm là từ dùng để chỉ một trạng thái tinh thần sa sút trong đó người bệnh
cảm thấy buồn cực độ, không còn tâm trạng để có thể làm chủ được cuộc sống hàng
ngày của mình.

Trầm cảm là một trong những bệnh hay gặp nhất, nếu không muốn nói là b
ệnh có số
lượng bệnh nhân đông nhất vào thế kỉ 21 này. Không chỉ nhiều bệnh nhân bị, mà tr
ầm
cảm còn là nguyên nhân gây tử vong cho một số lư
ợng đáng kể bệnh nhân. Trầm cảm sẽ
dẫn đến các bất đồng trong gia đình, những khó khăn trong công việc và tâm tr
ạng buồn
bực. Ðáng tiếc là bệnh này ít khi được nhìn nhận đúng đắn mà nhiều người vẫn coi đó l
à
một điều gì đó đáng xấu hổ, còn nếu nhìn nhận đúng thì nó cũng không đư
ợc điều trị một
cách thích đáng.
Tỉ lệ phụ nữ mắc bệnh cao hơn nam giới, thế nhưng nh
ững kết cục bi thảm thậm chí cả tự
tử thì gặp nhiều ở nam giới hơn.
Làm thế nào để chẩn đoán đuợc bệnh này ?
Chẩn đoán bệnh có thể đặt ra nếu có những dấu hiệu chính như sau :
Tinh thần bi quan, sa sút nghiêm trọng.
Không có hứng thú và sự vui thích vào điều gì .
Cơ thể uể oải, giảm hoạt động.
Ngoài ra còn có thể có các dấu hiệu sau :
Mất sự tập trung, kém chú ý vào mọi việc, mọi vấn đề.
Tự ti, không tin tưởng vào bản thân.


Hoang tưởng cho rằng mình là người tội lỗi, là người vô dụng.
Có cái nhìn bi quan, buồn thảm về tương lai.
Có ý muốn hay có kế hoạch tự tử.
Khóc lóc vô cớ.
Rối loạn giấc ngủ.
Ăn uống không ngon miệng.
Lãnh cảm trong quan hệ tình dục, cũng như không còn hứng thú về giới tính
Trầm cảm phổ biến đến mức nào ?
Trong cộng đồng được điều tra thì khoảng 2% dân số có thể rơi vào tình trạng trầm cảm
nặng vào bất kì lúc nào. Nhiều người ở trong tình trạng uể oải mệt mỏi với nhiều mức độ
khác nhau. Khoảng 8% số người được điều tra thì kết hợp cả hai trạng thái tinh thần vừa
lo âu vừa bị trầm cảm. Nhiều người, dù không có đủ các triệu chứng để kết luận tình
trạng tâm lí của họ là lo âu bồn chồn hoặc trầm cảm, thì họ cũng vẫn có những vấn đề rắc
rối trong công việc và các hoạt động xã hội, kèm theo các bất thường về thể chất không
có lí do cụ thể.
Tỉ lệ bị trầm cảm suốt đời là 8% ở nam giới và 12% ở nữ giới. Tỉ lệ n
ày ngày càng gia
tăng. Ðiều này thật đáng lo ngại và cần được quan tâm. Ngày càng có nhiều thanh ni
ên
trẻ bị trầm cảm hơn trước kia. Sự gia tăng này phải chăng là do cuộc sống xã hội ng
ày
nay có nhiều va chạm, gia đình mâu thuẫn và tan vỡ hơn là những thập niên trước đây.
Ðiều trị chứng trầm cảm như thế nào ?
Những biến cố nhỏ trong cuộc sống ảnh hư
ởng đến tâm trạng bệnh nhân có thể khắc phục
được đôi khi chỉ bằng những thay đổi trong môi trường xã hội và tình trạng gia đình.
Nhiều bệnh nhân lại phải cần điều trị thoả đáng bởi các bác sĩ đa khoa. Và chỉ có một số
ít bệnh nhân là cần đến các nhà tâm lí học.
Những bệnh nhân sau cần được khám bác sĩ chuyên khoa tâm lí :
- Có nhiều khả năng dẫn đến tự sát nếu không điều trị.

- Không đáp ứng với các điều trị thông thường.
- Những bệnh nhân mà việc chẩn đoán tình tr
ạng tâm lí khó khăn không thể thiết
lập được.
Nếu trầm cảm này xảy ra trên bệnh nhân có một thể trạng bất thư
ờng khác, có thể gây
ảnh hưởng đến việc điều trị trầm cảm, hay những bệnh nhân bị rối lo
ạn tâm thần, bệnh
nhân hay hoang tưởng, bệnh nhân hay có ảo giác, ảo tư
ởng, cũng cần phải tham khảo các
chuyên gia về tâm lí.
 Liệu pháp tâm lí và tư vấn tâm lí :
Theo điều tra, thì hầu hết người được hỏi đều chọn liệu pháp tâm lí (trò chuyện với bệnh
nhân về những vấn đề của họ) hoặc nếu cần thì kết hợp với thuốc là thích hợp để điều trị
trầm cảm. Nhiều bằng chứng chứng minh sự hiệu quả của liệu pháp tâm lí đối với bệnh
nhân trầm cảm từ mức độ nhẹ đến nặng. Ðiều này thấy rõ ràng ở các bệnh nhân bệnh nhẹ
hơn, nó ngăn không cho tình trạng bệnh xấu đi, không tiến tới giai đoạn bệnh nặng hơn.
Nam giới cũng vậy, họ thường yêu cầu điều trị theo phương pháp này, và với nó họ thấy
dễ chịu hơn.
 Thuốc chống trầm cảm :
Bắt đầu có từ năm 1950, đến nay các thuốc mới với ít tác dụng phụ ngày càng xu
ất hiện
nhiều. Các thuốc này tỏ ra hiệu quả với nhiều người và dễ dung nạp h
ơn. Tuy nhiên, dù
dùng loại thuốc nào cũng cần phải duy trì thuốc sau khi các triệu chứng biến mất 6 -
9
tháng, nếu không bệnh sẽ nhanh chóng trở lại.
Tác dụng của thuốc chống trầm cảm lên nam và nữ là tương đương.
Kho
ảng một nửa số bệnh nhân chỉ bị trầm cảm một lần duy nhất, một số khác lại bị tái đi

tái lại. Do đó việc hỏi bệnh sử về những lần trư
ớc đây rất quan trọng, nó quyết định
người bác sĩ nên cho thuốc như thế nào, chỉ điều trị lần này thôi hay là nên cho thu
ốc lâu
dài trong nhiều năm, để phòng ngừa cho những đợt bệnh sau ?
Phải kết hợp yếu tố môi trường, xã hội, phương pháp tâm lí, và dùng thu
ốc trong điều trị
trầm cảm để làm giảm gánh nặng và tỉ lệ tử vong cho bệnh nhân. Những tiến bộ đạt đư
ợc
trong việc nghiên cứu thuốc điều trị cũng như các li
ệu pháp tâm lí (giải quyết các vấn đề
của bệnh nhân, các liệu pháp về nhận thức - hành vi) đã mở ra một tương lai sáng s
ủa cho
các bệnh nhân bị trầm cảm.
Tuy nhiên, có khoảng 10% - 20% các trường hợp bệnh trở thành mãn tính, không điều trị
được.
Rối loạn tâm thần :
Ðây là một dạng rất nặng của bệnh và phải đòi hỏi điều trị nội trú tại bệnh viện. Nếu chỉ
dùng thuốc chống trầm cảm riêng cho bệnh nhân này thôi thì vẫn chưa hiệu quả, mà việc
điều trị lựa chọn cho các bệnh nhân này là dùng liệu pháp sốc điện hoặc phải kết hợp
thuốc trị tâm thần (một dạng thuốc điều trị ảo giác, hoang tưởng) với thuốc trị trầm cảm.

×