A. Phần mở đầu
Trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình xây dựng và phát triển đất nước,
nhân dân luôn giữ một vị trí hết sức quan trọng. Từ khi đất nước được hình
thành, nhân dân là những người đặt nền móng đầu tiên, giúp đất nước có đủ
kiều kiện tồn tại và được công nhận. Hình thành thôi chưa đủ mà quá trình
phát triển của đất nước mới thực sự là chặng đường dài. Một đất nước hưng,
thịnh, suy, yếu cốt là ở dân. Nếu cho rằng bộ máy lãnh đạo có vai trò đặc biệt
quan trọng, đây là những người lãnh đạo, người khởi xướng, chính những
người này đứng đầu một đất nước, đưa ra những quyết định, những chủ
trương, chính sách để phát triển đất nước theo kế hoạch đã định sẵn nhưng
những chủ trương chính sách đó phải hợp lòng dân, phải phù hợp với điều
kiện của dân, phải giúp cho cuộc sống của dân được tốt hơn mới thực sự làm
đất nước phát triển được. Từ xưa đến nay, luôn tồn tại quan điểm, dân có giàu
nước mới mạnh. Người dân phải được sống ấm no, đầy đủ mới có thể dồn tâm
trí vào lao động, làm việc, đưa đất nước tiến thêm những bước mới trên chặng
đường vươn ra với thế giới. Hiểu được tầm quan trọng của nhân dân, các vị
lãnh tụ, người lãnh đạo đất nước ta từ trước đến giờ luôn coi trọng dân, coi tư
tưởng thân dân làm gốc, phải luôn gắn chặt với dân, hiểu dân mới có được
lòng dân, mới tìm ra cách tốt nhất đưa đất nươc phát triển. Bởi những điều lệ,
chính sách mà người đứng đầu đưa ra âu cũng chỉ là lý thuyết, việc thực hiện
nó nằm hoàn toàn ở dân, định hướng có cải thiện cuộc sống của dân, giúp dân
được sống yên bình mới thực sự có hiệu quả, nhân dân mới dồn hết sức đóng
góp cho hoạt động của đất nước. “Chèo thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là
dân”, dù việc có dễ nhưng không được dân ưng thuận cũng không thể thực
hiện suôn sẻ được, nhưng việc có khó khăn, vất vả nhưng dân chúng một lòng
ủng hộ, nghe theo thì với sức dân to lớn có thể vượt qua được mọi sóng to gió
lớn, mọi cửa ải, đánh tan mọi kẻ thù để đi tới bến bờ tốt đẹp. Tư tưởng thân
dân là dòng tư tưởng tiến bộ của Nho gia thời Xuân Thu- Chiến quốc của
Trung Quốc trong đó những đại biểu lỗi lạc là Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử,
theo đó phải luôn quý trọng, quan tâm tới đời sống của nhân dân. Tư tưởng
thân dân cũng đã ăn sâu vào tâm khảm các vị vua, bậc nghĩa sĩ của nước ta,
từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Quốc Tuấn…, tư tưởng đó như
một triết lý sâu sắc, cốt lõi bao trùm. Qua từng thời kỳ, tư tưởng thân dân
ngày càng được mở rộng, phát triển hơn, tạo nên dấu ấn đặc sắc trong lịch sử.
Hồ Chí Minh đã vận dụng, sáng tạo và phát huy tư tưởng thân dân của các
bậc tiền bối đi trước để hình thành nên tư tưởng thân dân trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, Người đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân, luôn tin
tưởng và đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, cả cuộc đời Người chỉ muốn
làm sao nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Tư tưởng thân dân đã
suyên suốt trong cả cuộc đời của Hồ Chí Minh, trong từng cách sống, cách
làm việc của Người. Đến thời đại ngày nay tư tưởng đó vẫn đang được duy trì
1
và giữ vững, càng ngày nó càng được trau dồi, hun đúc để được mở rộng
hơn.Việc hiểu và vận dụng bản chất cốt lõi của tư tưởng thân dân không bao
giờ là thừa, nó luôn đặc biệt quan trọng đối với mỗi thời đại, mỗi quốc gia.
B. Nội dung
1. Định nghĩa, nguồn gốc tư tuởng thân dân
Tư tưởng thân dân có nguồn gốc từ Nho giáo, bắt nguồn từ thời xưa. Thân
dân thì phải hiểu dân, nghe được dân nói, nói được cho dân nghe, làm được
cho dân tin, biết được nhu cầu mong muốn của dân, hiểu được dân đang suy
nghĩ, trăn trở gì, đang mong đợi gì ở những người lãnh đạo, quản lý, phải biết
phát hiện và đáp ứng kịp thời những nhu cầu và lợi ích thiết thực của dân,
thấy cả thực tại và vạch ra được hướng đi tương lai đúng đắn cho dân phát
triển. Bên cạnh đó cần phải biết chia sẻ, đồng cảm và gần gũi với cuộc sống
của dân, mọi suy nghĩ và hành động đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của
dân, phản ánh đúng tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của dân. Mục tiêu là làm
cho dân giàu, nước mạnh, tất cả quyền lợi đều thuộc về người dân, chính
quyền từ trung ương tới địa phương đều do dân bầu ra, dân có quyền đóng
góp ý kiến cho cán bộ, đảng viên. Nhân dân là người chủ xã hội, cán bộ, đảng
viên là đầy tớ của nhân dân. Người cán bộ giữ được cần, kiệm, liêm, chính,
chí, công, vô tư là người có ý thức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân
dân, của Tổ quốc, của Đảng lên trên hết là thân dân. Thân dân biểu hiện ở
việc cán bộ, đảng viên thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi do pháp luật quy định,
tức là phải trung thành với mục tiêu lý tưởng, với chính sách, pháp luật của
nhà nước, phải lắng nghe và dựa vào quần chúng nơi cơ quan để xây dựng
quy chế làm việc, quy chế dân chủ cơ sở…, phải luôn đề cao trách nhiệm vì
dân để giải quyết nhanh chóng, kịp thời những chế độ, chính sách liên quan
đến người dân, thận trọng xem xét các vấn đề liên quan đến quyền lợi của các
tầng lớp nhân dân.
2. Tư tuởng thân dân của các bậc tiền bối
Dân tộc Việt Nam trong lịch sử đã từng trải qua biết bao thăng trầm, bao lần
bị đặt trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc, muốn tồn tại, dân ta đã không ngại
hi sinh máu xương để bảo vệ quê hương, đất nước, bảo vệ truyền thống tốt
đẹp của dân tộc từ thuở khai thiên lập địa. Quan điểm nhân nghĩa, thủy chung
đã thể hiện lòng yêu nước sâu sắc của những vị lãnh đạo. Các bậc vĩ nhân thời
xưa luôn coi trọng tư tưởng nhân nghĩa, bao trùm lên cuộc đời, ảnh hưởng tới
suy nghĩ và hành động của họ. Phải kể đến trước hết là Nguyễn Trãi- một lãnh
tụ kiệt xuất của dân tộc, với ông nhân nghĩa là thương dân, vì dân, an dân,
nhân nghĩa là sự khoan dung, độ lượng, là lý tưởng xây đựng đất nước thái
bình. Nhân nghĩa với Nguyễn Trãi là một tư tưởng, là một trong những quan
điểm nền tảng trong hệ thống tư tưởng của ông, tư tưởng đó được nhắc đến
trong hầu hết các tác phẩm ông viết. Tuy rằng tư tưởng của Nguyễn Trãi có
kế thừa tư tưởng của Khổng- Mạnh nhưng vẫn mang ý nghĩa tích cực, mở
2
rộng hơn. Nhân nghĩa trong quan điểm của Nguyễn Trãi được thể hiện “việc
nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, “ dùng quân nhân
nghĩa cứu dân khổ, đánh kẻ có tội”, trước hết phải gắn chặt với vì dân và an
dân. Nguyễn Trãi coi an dân là mục đích của nhân nghĩa và trự bạo là đối
tượng của nhân nghĩa, nhân nghĩa là phải đấu tranh cho dân tộc Việt Nam tồn
tại và phát triển, nhờ có nhân nghĩa mà “ càn khôn đã bĩ rồi lại thái”. An dân
là sự đảm bảo cho dân có được một cuộc sống yên bình, không được nhũng
nhiễu phiền hà dân, phải cố kết lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế
nước. Thêm nữa, trong tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi còn chưa đựng tư
tưởng trọng dân, biết ơn dân. Ông luôn nhận thức được lực lượng làm ra thóc
gạo, cơm ăn, áo mặc là ở dân, chính vì vậy nên khi làm quan được hương
bổng lộc ông đã nghĩ ngay đến nhân dân. Trong suốt cuộc đời Nguyễn Trãi
luôn gần gũi với nhân dân, hòa mình với nhân dân, ông hiểu được nguyện
vọng tha thiết của nhân dân, thấy được vai trò, sức mạnh vĩ đại của nhân dân
trong sự nghiệp phát triển và bảo vệ đất nước. Nguyễn Trãi còn tiến xe hơn
khi ý tưởng xây dựng một đất nước thái bình, bên trên vua thánh tôi hiền, bên
dưới không còn tiếng giận oán sầu. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, cuộc
sống của những người dân luôn là nguồn cảm hứng lớn cho Nguyễn Trãi, vốn
rất xa lạ với văn chương bác học nhưng đã được Nguyễn Trãi đưa vào thơ
Nôm của mình hết sức tự nhiên. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao những đặc điểm
thanh điệu tất cả những khả năng phong phú ấy của ngôn ngữ dân gian đã
được khai thác một cách tài tình, để cho hình tượng thơ có nhiều màu sắc dân
giã và lời thơ có nhiều âm điệu phong phú qua đó đã làm phong phú cho kho
tàng văn học dân tộc và cho chính hồn thơ của mình. Là sáng tác nghệ thuật
của nhân dân, tác phẩm văn học dân gian phản ánh và biểu hiện đời sống tình
cảm, thế giới tinh thần của nhân dân, đó là toàn bộ đời sống sinh hoạt, lao
động và tinh thần của họ. Nguyễn Trãi luôn có tư tưởng thân dân, yêu thương
nhân dân hết mực nên những vần thơ của ông rất gần gũi nhân dân, ông đã
phần nào phát hiện được mối quan hệ giàu giá trị nhân văn chủ nghĩa thường
chỉ xuất hiện trong tục ngữ, ca dao: mối quan hệ giữa thiên nhiên và đời sống
lao động sản xuất của con người, mọi nỗi khổ cực, niềm khao khát, mong mỏi
hạnh phúc của những người dân cơ cực đều được Nguyễn Trãi truyền vào
trong tác phẩm của mình. Tư tưởng của Nguyễn Trãi có phạm vi rộng lớn, đạt
tới mức độ khái quát, có ảnh hưởng đến tư tưởng của những người đi sau.
Từ trước đến nay, những áng văn thư lịch sử nổi tiếng luôn nhắc nhở chính
quyền phải quan tâm, đề cao vai trò của nhân dân. Năm 1010 khi chuyển dời
kinh đô từ Hoa Lư về Đại La, Lý Công Uẩn đã viết “Chiếu dời đô” trong đó
có ghi “Ngày xưa nhà Thương đến Bành Canh là 5 lần dời đo, nhà Chu đến
Thành Vương là 3 lần dời đô, há phải là các vị vua thời tam đại ấy tự dời đô
theo ý riêng đâu, mà là mưu chọn chỗ ở trung tâm, giữ mối giềng muôn đời
cho con cháu, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ thích hợp thì
dời đổi. Bởi thế ngôi truyền dài lâu, xã tắc hưng thịnh…” Nhà vua làm điều
3
gì, nhất là thay đổi có ảnh hưởng tới tương lai của dân tộc, của nhân dân đều
phải cân nhắc chín chắn và quyết định thay đổi vì lợi ích chung của toàn dân.
Thời nhà Trần, Trần Quốc Tuấn đã trông cậy vào sức mạnh của toàn dân mà
thắng được giặc Nguyên, tư tưởng của ông đã được cô đọng lại “Dựa vào sức
dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách để giữ nước”. Trước thế
mạnh của quân Nguyên mà gót chân của đạo quân thiện chiến này từng đạp
đổ thành trì bao nhiêu nước từ Á sang Âu, Trần Quốc Tuấn đã tự tin vào tài
thao lược của tướng sĩ nhà Nam và dựa vào sức mạnh đoàn kết của dân tộc để
ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông. Trước một quyết định quan trọng đến
vận mệnh dân tộc, nhà Vua cùng các cấp lãnh đạo chẳng tự ý định đoạt mà
triệu tập Hội nghị Diên Hồng và Hội nghị Bình Than hỏi ý kiến muôn dân từ
bậc bô lão đến người niên thiếu để thống nhất ý chí toàn dân. Cụ Trạng trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng nói:
“Cổ lai quốc dĩ dân vi bản
Đắc quốc ưng tri tại đắc dân”
(Từ xưa đến nay, nước luôn lấy dân làm gốc
Được nước nên biết là nhờ được lòng dân)
Một trong những hình ảnh thể hiện sự thân dân rõ nhất trong thời xưa đó là
việc vua đi cày ruộng, tham gia lễ tịch điền cùng với người nông dân. Nước ta
là nước nông nghiệp, vua đã biết chăm lo đến nghề nông thật là nên thay. Hơn
nữa, như người xưa đã nói hành động có công hiệu hơn ngàn lời nói, chẳng
thế mà kỉ cương phép nước giữ vững, đất nước vững vàng, kinh tế cực phát
triển cũng nhờ công lớn lắm của các vua thời trước. Lễ tịch điền đầu tiên
được tiến hành dưới thời vua Lê Đại Hành. Tương truyền vào năm 987, khi
Lê Đại Hành đích thân xuống ruộng cày đã đào được một hũ vàng. Năm 988,
vua cày ở Bàn Hải lại được một hũ bạc, vì vậy hai thửa ruộng trên được đặt
tên là "Kim ngân điền". Sau đó đến thời Lý - Trần, các lễ này được tổ chức
long trọng hơn và là một trong những ngày hội chính của đất nước vào mùa
xuân. Vào thời Lý, Vua Lý Thái Tông là người rất chăm lo cho nông nghiệp
nước nhà, ông đã nhiều lần tự mình xuống cày. Sử cũ có ghi rõ, ngày 14 tháng
10 năm 1030(Canh Ngọ), vua đích thân ra ruộng ở Điều Lộ xem gặt; ngày 1
tháng 4 năm 1032(Nhâm Thân) vua đi cày tịch điền ở Đỗ Động Giang, hôm
ấy, có nhà nông dâng Vua một cây lúa 9 bông; tháng 3 năm 1042 (Nhâm
Ngọ), vua đi cày ruộng tịch điền ở Khả Lâm...v..v. Sách đại việt sử kí toàn
thư còn ghi lại một điển tích như thế này: " Mùa xuân tháng 2 năm Mậu Dần
1038, Vua ngự ra Bố Hải cày ruộng tịch điền. Vua sai Hữu Ti dọn cỏ đắp đàn
rồi thân tế Thần Nông, tế xong, vua tự cầm cày để muốn làm lễ tự cày. Các
quan tả hữu có người can rặng: - Đó là việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm
thế? Vua nói “Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lấy gì cho thiên hạ
noi theo? Nói xong vua đẩy cày ba lần rồi thôi. Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:
“Thái Tông khôi phục lễ cổ, tự mình cày ruộng tịch điền để nêu gương cho
thiên hạ, trên thì để cúng tôn miếu, dưới thì để nuôi muôn dân, công hiệu trị
4
nước dẫn đến của giàu dân đông”. Đến đời Trần, do bận việc giữ nước, chống
ngoại bang nên lễ cày tịch điền không hưng thịnh như trước. Tuy nhiên, khi
có điều kiện, các vua vẫn đích thân điều hành lễ này. Các triều đại phong kiến
Việt Nam trong lịch sử đều lấy dân làm gốc trong việc ban hành các chủ
trương, chính sách từ kinh tế, xã hội, văn hóa, luật pháp đến an ninh, quốc
phòng, ngoại giao… Triều Khúc Thừa Dụ có chính sách “khoan, giản, an,
lạc”, triều Lý có chính sách “ngụ binh ư nông”, triều Trần có “khoan, thư sức
dân”, triều Lê quan niệm “dân như nước có thể đẩy thuyền, lật thuyền”. Như
triều đại Lê Lợi lập nên vẫn là một trong những triều đại có tiếng tăm lừng
lẫy, các vua Lê còn làm được nhiều việc hơn thế, vua Lê Thánh Tông soạn
thảo bộ luật Hồng Đức, các vua Lê đã thể nghiệm và xác định được vị trí con
người trong tổng thể các mối quan hệ. Bộ luật Hồng Đức đã thể hiện sâu sắc
tư tưởng “lấy dân làm gốc”. “Trong kinh thành và phường ngõ, làng xóm có
kẻ ốm đau mà không ai nuôi, nằm ở đường sá, chùa quán thì xã quan ở đó
phải dựng lều lên mà chawmc sóc, cơm cháo, thuốc men cốt sao cứu sống họ,
nếu không may họ chết phải trình lên quan trên và tổ chức chôn cất, không
được để lộ thi hài, nếu phạm tội này thì quan làng xã bị tội hay bãi chức”.
Thương nước tức là thương dân, đối với văn hóa truyền thống của Việt Nam,
lòng thương dân của nhà vua xuất phát từ đức thương người mà thương người
thì trước hết những nhà lãnh đạo phải sống trọn đạo làm người, phải đối nhân
xử thế, tu thân tề gia trước khi trị quốc, bình thiên hạ.
Giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai đoạn lịch sử Việt Nam có
những bước chuyển đổi hết sức to lớn. Thực dân Pháp xâm lược và biến nước
ta thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. chế độ phong kiến Việt Nam cùng
hệ tư tưởng Nho giáo ngày càng tỏ ra bất lực trước yêu cầu của công cuộc
chống ngoại xâm vì nền độc lập dân tộc. Trong bối cảnh đó, nhiều nhà yêu
nước tiêu biểu, từ Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch đến Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh… đã thực hiện một bước chuyển tư tưởng
chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn. Đặng Huy Trứ đã đề xuất những tư tưởng
canh tân đất nước. Trong tư tưởng của ông, quan niệm về dân là một nét mới
nổi bật trong tư tưởng chính trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Ông coi “dân là
gốc của nước, là chủ của thần”, “khí mạnh của nước là lấy dân làm gốc. Bồi
bổ cái gốc đó mới là thầy thuốc giỏi”. Các nhà tư tưởng như Đặng Huy Trứ,
Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch… đã nắm bắt được xu thế đó và bước
đầu tạo ra một bước chuyển trong tư tưởng chính trị, từ tư tưởng quân chủ
sang tư tưởng dân chủ, từ vương quyền sang dân quyền. Về mục đích Cách
mạng, các nhà tư tưởng đều thống nhất mục đích là cứu nước, cứu dân, giành
độc lập dân tộc. Phan Bội Châu viết “lấy việc cứu quốc làm chủ nghĩa, cho
nên muốn cho nước ta độc lập; lại lấy việc cứu dân làm chủ nghĩa, cho nên
không muốn ngó thấy dân ta phải lầm than”. Về phương pháp Cách mạng
theo Phan Châu Trinh bạo động là chết bởi nhân dân không có chỗ nương
thân, khong có khí giới mà dùng, không có tiền của mà tiêu… quyết không
5
thể sống nổi trong cái thế giới này, lại còn chống cự được với ai nữa. Ông chủ
trương sử dụng phương pháp đấu tranh hòa bình không gây ra tổn thất về tính
mạng và vật chất của nhân dân, làm cho nhân dân thức tỉnh, vươn lên làm
cách mạng. Cuối thế kỷ XIX, trong tư tưởng canh tân, Đặng Huy Trứ coi dân
là gốc của nước, là chủ của thần, khí mạnh của nước là lấy dân làm gốc. Tư
tưởng này là một trong những cơ sở tiền đề giúp Phan Bội Châu phát triển
quan điểm: dân là chủ nước, nước là của dân. Ông cho rằng vua phải lấy dân
làm trời, dân chính là trời của kẻ đứng đầu cai trị nước, một nước có ba điều
quan trọng là nhân dân, đất đai, chủ quyền, trong đó nhân dân đứng thứ nhất.
Phan Bội Châu nhấn mạnh: “dân ta là chủ nước non”, “ nước ta hẳn là gia tài
tổ nghiệp của dân ta rồi, bỏ mất nó là do dân ta, thì thu phục lại nó tất cũng
phải do dân ta làm” và “nước được cường thịnh là nhờ có nhân dân”. Tương
tự, Nguyễn An Ninh cũng đã khẳng định “chính nhân dân tạo lập nhà vua, và
không phải vua lập ra dân, trên mảnh đất An Nam này dân là vua chứ không
phải người ngồi trên ngai vàng”. Quan điểm dân là chủ nước, nước là nước
của dân là một bước chuyển tư tưởng căn bản từ quân chủ sang dân chủ, các
nhà tư tưởng chủ trương: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Theo Phan
Châu Trinh, khai dân trí là phải bỏ lối học tầm chương trích cú, thơ văn phù
phiếm của người xưa, phải mở trường dạy chữ quốc ngữ, kiến thức khoa học
thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa. Ông viết “ ước học hàh mở cho xứng đáng,
đừng vẽ hình, vẽ dạng cho qua; công thương, kỹ nghệ chuyên khoa; trí tri,
cách vật cho ta theo cùng”. Để mở mang dân trí, Phan Bội Châu cho rằng phải
phát triển giáo dục, bởi giáo dục là gốc rễ để xây dựng nền chnhs trị. Chấn
dân khí là làm cho mọi người thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, giác ngộ
được quyền lợi của mình. Hậu dân sinh tức là phải làm cho mọi người biết
phát triển kinh tế, mở mang ngành nghề, làm cho cuộc sống ấm no, hạnh
phúc. Phan Bội Châu cho rằng phải xóa bỏ chính thể quân chủ, xây dựng
chính thể dân chủ cộng hòa gồm có ba việc do dân làm chủ, quyền lực ở nơi
dân và được thực hiện thông qua các đại biểu, mọi việc do dân định liệu. Ông
viết “Bao nhiêu việc đều do công chúng quyết định. Phàm nhân dân nước ta
không cứ là sang hè, giàu nghèo, lớn bé đều có quyền bỏ phiếu bầu cử”, Phan
Bội Châu coi cái gốc tạo nên họa phúc của nhân dân chính là ở nền chính trị.
3. Hồ Chí Minh đã thực hiện và phát triển tư tuởng thân dân
Tiếp nhận dòng chảy văn hóa truyền thống của dân tộc và thời đại, Hồ Chí
Minh đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân, không chỉ dừng lại
ở đó, Người còn luôn tôn trọng, tin tưởng và đặt lợi ích của nhân dân lên trên
hết. Chính vì vậy cả cuộc đời của Người chỉ có một ham muốn tột bậc là là
làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Theo Hồ Chí
Minh: dân là gốc của nước, dân là người đã không tiếc máu xương để xây
dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước, nước do
6
dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của
nước. Dân như nước, cán bộ như cá, cá không thể sinh tồn và phát triển được
nếu như không có nước. Người yêu cầu cán bộ từ Chủ tịch nước trở xuống
đều phải là đày tớ trung thành của nhân dân. Bác đã thẳng thắn phê phán
nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao khi xuống cấp dưới triển khai công việc thì
khệnh khạng như ông quan và nội dung truyền đạt thì rất đại khái, hình thức
vì vậy mà quần chúng không hiểu và rất sợ đi họp. Đó là bệnh xa quần chúng,
bệnh hình thức, không phải vì lợi ích của quần chúng. Là người phục vụ nhân
dân, cán bộ Đảng, nhà nước đồng thời là người lãnh đạo, người hướng dẫn
của nhân dân. Người không bao giờ đối lập vai trò người lãnh đạo với người
đày tớ của nhân dân trong bản thân người cán bộ của Đảng và Nhà nước mà
trái lại Người yêu cầu phải làm thế nào để xứng đáng vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Thân dân, coi dân là gốc là
đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự đặt
mình vào địa vị của người dân mà mình đại diện để hiểu, suy xét, chia sẻ tâm
tư, nguyện vọng, kiến nghị, đề xuất, mong muốn của họ. Có lắng nghe, thấu
hiểu nguyện vọng chính đáng của dân thì đại biểu dân cử mới thực hiện tốt
việc. Tháng 10-1945, trong thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và
làng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “...Nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì... Chúng ta
phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều
là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để
đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi
cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng
ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Việc đặt ra chương
trình làm việc, kế hoạch hành động, tuyên truyền, nhiều cán bộ cũng không
hỏi xem quần chúng cần cái gì, muốn nghe, muốn biết cái gì, “chỉ mấy ông
cán bộ đóng cửa lại mà làm, ngồi ỳ trong phòng giấy mà viết, cứ tưởng những
cái mình làm ra là đúng, mình viết là hay. Nào có biết, cách làm chủ quan đó,
kết quả là “đem râu ông nọ chắp cằm bà kia”, không ăn thua, không thấm
thía, không lợi ích gì cả”. Là người phục vụ nhân dân, cán bộ Đảng, Nhà
nước, đoàn thể đồng thời là người lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân.
Theo Người: Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng, nếu
không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường.
Ngay từ cuộc sống thường ngày, cách ăn ở, làm việc với dân của Bác đã thể
hiện sự quan tâm, gần gũi với nhân dân. Dù ở bất kỳ cương vị nào Bác vẫn
giữ trong mình nếp sống giản dị. Việc ăn, mặc, ở cũng như sinh hoạt, chi tieu
hàng ngày của Bác đều hết sức tiết kiệm. Mỗi bữa Bác luôn qui định có
không quá ba món ăn và thường là những món dân tộc như tương cà, cá
kho… Khi đi công tác ở địa phương Bác thường dặn các đồng chí chuẩn bị
nắm cơm từ nhà, thậm chí liên hoan chào mừng Ngày thành lập Đảng cũng
chỉ có bát cơm, món xào, tô canh và đĩa cá. Bác nói: Ở đời ai chẳng thích ăn
7
ngon, mặc đẹp nhưng nếu miếng ngon đó lại đánh đổi bằng sự mệt nhọc,
phiền hà của người khác thì không nên. Một tuần lễ Bác nhịn ăn một bữa,
không phải là để hạ mình cho khổ sở mà là để nêu một tấm gương dè xẻn gạo
cho đồng bào đặng làm giảm bớt nạn đói trong nước. Trong trang phục hàng
ngày của Bác có lẽ ấn tượng nhất phải kể đến đôi dép cao su và bộ quần áo
ka-ki, đôi dép được Bác dùng hơn 20 năm đến khi mòn gót phải lấy một
miếng cao su khác vá vào, các qui hay bị tuột phải đóng đinh giữ, còn bộ
quần áo ka-ki Bác mặc đến khi bạc màu, sờn cổ áo. Những người giúp việc
xin Bác thay bộ quần áo mới thì Bác nói: “Bác mặc như thế phù hợp với hoàn
cảnh của dân, của nước, không cần phải thay”. Nơi ở của Bác cũng hết sức
giản dị, những nơi ở từ Pác Bó đến Phủ Chủ tịch là một phần trong cuộc sống
đời thường của Bác. Ngôi nhà vừa là nơi Bác ở, làm việc, tiếp khách, đồ dùng
trong phòng rất giản dị, tiện lợi. Bác không muốn sống xa cách cuộc sống của
nhân dân.
Bác sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nhưng là nhà ngo có
nguồn gốc từ nông dân. Từ tấm bé Bác sống giữa những người nghèo khổ ột
nắng hai sương ngoài đồng nên Người hiểu sâu sắc nỗi khổ của những người
nông dân, việc nhà nông với Bác không có gì xa lạ. Cùng đổ mồ hôi với
người nông dân mới quí hạt gạo, củ khoai, mới xót lòng khi bão lụt ập đến
cướp đi thành quả lao động vất vả của người dân trên ruộng đồng. Ngay sau
khi giành được chính quyền, tuy bận trăm công nghìn việc Bác vẫn dành
nhiều thời gian, không chỉ nhắc nhở các địa phương đắp đê chống bão lụt mà
còn trực tiếp xuống các xã để đôn đốc, kiểm tra công việc. Biết tin đê sông
Hồng ở khu vực Hưng Yên, Thái Bình bị vỡ, Bác trựa tiếp xuống kiểm tra
việc khắc phục hậu quả để có biện pháp kịp thời cùng chính quyền địa
phương vận động giúp đỡ nhân dân vượt qua khó khăn. Khi đắp đê xong bác
xuống thăm, Bác đi xem kiểm tra một lượt, nhìn chỗ giáp ranh đê mới đê cũ,
Người nhắc nhở phải tăng cường gia cố mới an toàn, Bác khen đắp nhanh
nhưng chưa lèn chặt, cần tăng cường thêm lực lượng để đầm thật kỹ mới bảo
đảm lâu dài. Hậu quả nạn đối năm 1945 như một bóng ma ghê rợn phủ lên
cuộc sống đói rách của người nông dân, càng làm không khí ảm đạm khó
khăn thêm, Bác đi xuống các địa phương để đôn đốc việc cứu đó, tổ chức gia
tăng sản xuất, đắp đê phòng chống thiên tai. Năm 1955, nghe tin lũ lụt lớn ở
Kiến An gây thiệt hại lớn về người và của cho nhân dân, Bác gọi cho đồng chí
có trách nhiệm lên hỏi cụ thể. Bác rất lo lắng và rơm rớm nước mắt nhất là
biết có nhiều gia đình chết người và trôi nhà cửa. Bác căn dặn phải có phương
án tỉ mỉ khắc phục hậu quả thiệt hại, người chỉ thị Tỉnh ủy phải trực tiếp chỉ
đạo và dặn đi dặn lại “trước hết phải lo cái ăn, nơi ở cho người bị nạn, tuyệt
đối không để một người bị đói”. Cứ đến mùa nước lũ, hay kỳ hạn hán Bác
thường trực tiếp xuống địa phương tham gia chống trời cùng nhân dân. Lần
về công trường Đại thủy nông Bắc- Hưng- Hải, trên đường đi thấy một chị
đang đẩy chiếc xe cút kít nặng nề lên dốc, Bác vội chạy đến đẩy giúp chị. Bác
8