Mâu thu
ẫn giữa chuẩn mực kế toán với Luật Doanh
nghiệp trong hạch toán vốn góp của chủ sở hữu đối
với công ty TNHH?
Từ quy định của Luật doanh nghiệp, không ít doanh
nghiệp đã cho r
ằng khi hạch toán vốn góp của chủ sở hữu
và công ty, phải hạch toán theo số vốn đã đăng ký, phần
chênh lệch (nếu có) giữa số vốn đã đăng ký với số vốn
thực góp được hạch toán là khoản nợ phải thu của công
ty. Trong khi đó, theo chuẩn mực kế toán, khi hạch toán
khoản vốn này, chỉ được ghi theo số vốn đã th
ực góp. Vậy
vấn đề này nên hiểu như thế nào, phải chăng có sự mâu
thuẫn giữa chuẩn mực kế toán và Luật Doanh nghiệp?
Khoản 2, Điều 39 của Luật Doanh nghiệp quy định rõ về
thực hiện góp vốn đối với công ty TNHH hai thành viên tr
ở
lên: "Trường hợp có hai thành viên không góp đủ và đúng
hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp được coi là n
ợ
của thành viên đó với công ty; thành viên đó phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do không góp
đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết". Từ quy định của Luật
doanh nghiệp, không ít doanh nghiệp đã cho rằng khi
hạch toán vốn góp của chủ sở hữu và công ty, phải hạch
toán theo số vốn đã đăng ký, phần chênh lệch (nếu có)
giữa số vốn đã đăng ký với số vốn thực góp được hạch
toán là khoản nợ phải thu của công ty. Trong khi đó, theo
chuẩn mực kế toán, khi hạch toán khoản vốn này, chỉ
được ghi theo số vốn đã thực góp. Vậy vấn đề này nên
hiểu như thế nào, phải chăng có sự mâu thuẫn giữa
chuẩn mực kế toán và Luật Doanh nghiệp? Bài viết này,
xin trao đổi một số vấn đề sau:
Một là, việc hạch toán một số vốn chưa góp đủ theo cam
kết vào TK 138 là không đúng quy định của kế toán và
dẫn đến những phân tích, đánh giá sai lầm về t
ình hình và
kết quả tài chính, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp hạch toán số vốn chưa góp
đủ theo cam kết của các thành viên vào TK 138 nhưng
theo hai cách khác nhau. Có doanh nghiệp khi nhận được
bản cam kết của các thành viên góp vốn thì ghi toàn b
ộ số
vốn đã cam kết vào bên Nợ TK 138 đối ứng bên Có TK
411, sau đó, khi nhận đư
ợc vốn góp, ghi Nợ TK 111, hoặc
các TK có liên quan, đối ứng ghi Có TK 138. Số dư nợ
(nếu có) của TK 138 chính là số vốn đã cam kết nhưng
chưa góp của cá thành viên. Nhưng cũng có doanh
nghiệp chỉ ghi Nợ TK 138, đối ứng ghi có TK 411 khi hết
hạn góp vốn mà vẫn có thành viên chưa góp đủ phần vốn
đã cam kết.
Tuy nhiên, cả hai cách này đều không đúng quy định của
kế toán. Kế toán chỉ ghi nhận phần vốn góp của các th
ành
viên theo đúng số thực góp, không sử dụng TK 138 hay
bất kỳ TK nào khác để ghi nhận phần vốn góp đã cam kết
nhưng chưa góp đủ vào doanh nghiệp.
Khi các doanh nghiệp ghi nhận số vốn chưa góp đủ và
phản ánh trên báo cáo tài chính (Bảng cân đối kế toán) sẽ
dẫn đến nhưng phân tích, đánh giá sai lầm về t
ình hình và
kết quả tài chính, về hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Cụ thể, đánh giá không đúng về những chỉ tiêu
liên quan đến tài sản và vốn chủ sở hữu như: quy mô và
cơ cấu tài sản, quy mô và cơ cấu nguồn vốn; tăng về khả
năng thanh toán và giảm về hiệu suất sử dụng tài sản,
hiệu quả vốn chủ sở hữu…Ngoài ra, còn dễ gây nhầm lẫn
trong phân phối kết quả lợi nhuận sau thuế.
Hai là, không có sự mâu thuẫn giữa quy định kế toán và
Luật Doanh nghiệp.
Mặc dù trong Luật Doanh nghiệp đã quy định trường hợp
có thành viên không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam
kết thì số vốn chưa góp được coi là nợ cua rthành viên đó
đối với công ty; và trong quy đ
ịnh của kế toán cũng có quy
định phần vốn góp của chủ sở hữu vào công ty phải được
hạch toán theo số thực góp, nhưng ở đây không có mâu
thuẫn.
Luật Doanh nghiệp quy định về nghĩa vụ của các thành
viên và để đảm bảo cho doanh nghiệp được tồn tại và
hoạt động theo đúng quy mô và nội dung đã đăng kí.
Trường hợp thành viên không góp đủ và đúng hạn số vốn
đã cam kết thì Luật Doanh nghiệp coi phần ch
ưa gps đó là
nợ của thành viên đó với công ty, nhưng luật không yêu
cầu hạch toán và phản ảnh khoản chưa góp đó trên báo
cáo tài chính (Bảng cân đối kế toán). Về góc độ kế toán,
mọi nỗ lực của kế toán hiện nay là nhằm cung cấp thông
tin phản ánh một cách trung thực nhất hình ảnh về tình
hình tài chính và kết quả kinh doanh để người sử dụng có
thể đánh giá đúng đắn hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, do đó, kế toán có những nguyên tắc riêng. Trong
các nguyên tắc kế toán đã được quy định tại VAS 01-
(Chuẩn mực chung) và VAS 21- (Trình bày báo cáo tài
chính), đáng lưu ý ở đây là nguyên tắc "thận trọng" trong
VAS 01 và quy định về báo cáo tài chính được xem là
đáng tin cậy khi…"phản ánh đúng bản chất kinh tế của cá
giao dịch và sự kiện không chỉ đơn thuần phản ánh hình
thức hợp pháp của chúng" (VAS 21). Các nguyên tắc này
cho phép kế toán không nhất thiết phải hoàn toàn lệ thuộc
vào hình thức pháp lý của các sự kiện và giao dịch kinh tế
mà phải căn cứ vào bản chất kinh tế của chúng và phải
thận trong khi ghi nhận các khoản doanh thu và tài sản.
Sự độc lập trên đây do bản chất của các công cụ quy
định, giữa chúng không có mâu thuẫn với nhau mà thống
nhất tồn tại trong chỉnh thể của một nền kinh tế.
Ba là, vấn đề phát sinh và xử lý kế toán.
Nhu cầu thông tin để theo dõi, quản lý tình hình thực hiện
nghĩa vụ góp vốn của cá thành viên là nhu c
ầu chính đáng
không những của doanh nghiệp mà còn là nhu cầu của
nhiều người khác có quan tâm. Vì vậy, để vừa biết được
thông tin về tình hình thực hiện nghĩa vụ gíp vốn của chủ
doanh nghiệp vừa để đánh giá đúng đắn tình hình tài
chính và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, kế toán
cần phải hoàn thiện thêm như thế nào?
Để xử lý vấn đề này theo chúng tôi:
Thứ nhất, khi phát sinh các khoản vốn góp chưa đ
ủ không
đúng hạn, kế toán không ghi sổ kế toán tổng hợp mà chỉ
thực ghi đơn theo dõi chi tiết tình hình góp vốn đối với
từng thành viên góp vốn theo các chỉ tiêu số vốn cam kết,
số vốn đã góp và số vốn chưa góp.
Thứ hai, cuối kỳ kế toán tổng hợp và bổ sung thêm vào
thuyết minh báo cáo tài chính phần thuyết minh về vốn
chủ sở hữu các nội dung về số vốn cam kết, số vốn đã
góp và số vốn chưa góp, như vậy vừa đảm bảo tuân thủ
Luật Doanh nghiệp, vừa không trái quy định của kế toán
và vừa thoả mãn thông tin cho các đối tượng sử dụng.
Trên đây là quan điểm, đề xuất cách xử lý việc hạch toán
khoản vốn góp của chủ sở hữu trong trường hợp thành
viên góp vốn chưa góp đủ và dúng hạn các khoản vốn đã
cam kết trong doanh nghiệp TNHH. Rất mong nhận được
ý kiến trao đổi của bạn đồng nghiệp để hoàn thiện chế độ
kế toán cũng như thực tiễn công tác kế toán trong doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay.