Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Nâng cao năng lực kiểm toán và tổ chức bộ máy ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.26 KB, 13 trang )

Nâng cao năng lực kiểm toán và tổ
chức bộ máy Kiểm toán Nhà nước
Để xác định mục tiêu và nội dung phát triển Kiểm toán Nhà
Nước (KTNN) trong chiến lược cần phải nhận thức và xác định r
õ
vị trí của KTNN trong bộ máy hành chính công quyền của Việt
Nam đang trong quá trình cải cách và hoàn thiện; đánh giá đúng
những việc đã làm và kết quả đạt được; những kỳ vọng và sự
mong đợi của nhân dân, của xã hội và đặc biệt là việc lựa chọn
bước đi, cách làm phù hợp với tiến trình phát triển nền kinh tế thị
trường , mở cửa hội nhập với kinh tế quốc tế của Việt Nam. Vì
vậy , cần đề cập và nhấn mạnh 2 quan điểm: Một là , quan điểm
phát triển KTNN trở thành chủ lực hỗ trợ đắc lực , tin cậy cho
Quốc Hội , Hội đồng nhân dân trong các quyết định kinh tế - tài
chính và hoạt động giám sát tối cao; Đồng thời là công cụ đủ
mạnh để kiểm kê, kiểm soát việc quản lý và sử dụng ngân quỹ
nhà nước , tài sản quốc gia . Hai là , phát triển KTNN cần đặt
trong tiến trình chung của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới
và hoàn thiện thể chế , nền hành chính quốc gia, nền kinh tế thi
trường , mở cửa và hội nhập. Vì vậy cần lựa chọn nội dung ,
bước đi và cách làm cụ thể , phù hợp .
Trên cơ sở đó theo tôi , mục tiêu chung cho phát triển KTNN đến
năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 nên được xác định :
Tăng cường năng lực hoạt động , đảm bảo chất lượng , hiệu
lực , nâng cao hiệu quả hoạt động của KTNN ; xây dựng KTNN
trở thành công cụ mạnh trong kiểm tra , kiểm soát ngân quỹ nhà
nước , tài sản quốc gia , phục vụ đắc lực cho các quyết định và
hạt động giám sát Quốc Hội, Hội đồng nhân dân về kinh tế tài
chính.
Như dự thảo chiến lược đã nêu , mục tiêu c
ụ thể phát triển KTNN


cần được xác định trên cả 3 mặt : Năng lực hoat động, hiệu quả
kiểm toán và hiệu lực kiểm toán. Nhưng nên chăng cần xác định
những mục tiêu cụ thể hơn trong việc hỗ trợ , phục vụ Quốc hội
và Hội đồng nhân dân . Đồng thời làm rõ mục tiêu kiểm tra kiểm
soát việc quản lý và sử dụng ngân quỹ nhà nước và tài sản quốc
gia.
Để đạt được mục tiêu của sự phát triển cần tập trung vào các nội
dung của chiến lược , nội dung công việc và bước đi, cách làm:
-Thứ nhất , phát triển KTNN trở thành công cụ của Nhà
Nước pháp quyền XHCN, nhà nước “Của dân, do dân và vì
dân”. Cần khẳng định :KTNN là 1 b
ộ phận trong hệ thống tổ chức
của Nhà nước pháp quyền, thực hiện quyền lực của nhân dân
thông qua hoạt động kiểm tra , kiểm soát và giám sát việc sử
dụng NSNN, tài sản công là những đồng tiền được đóng góp từ
mồ hội công sức của dân cần có sự thống nhất về nhận thức ,
quan điểm về sự phân công nhiệm vụ và quyền hạn giữa các cơ
quan hành pháp , tư pháp và lập pháp trong hoạt động kinh tế, t
ài
chính để tạo ra sự đồng thuận và sự ủng hộ , hợp tác cũng như
việc giám sát của các ngành, các cấp và toàn xã hội đối với hoạt
động kiểm tra , kiểm soát chi tiêu NSNN, đ
ấu tranh chống tệ tham
nhũng, lãng phí trong các cơ quan công quyền
-Thứ hai, minh bạch và công khai về tài chính là một trong
các tiền đề, điều kiện quan trọng để hội nhập kinh tế với khu
vực và thế giới. Theo những quy tắc về minh bạch tài chính
quốc gia của Quỹ tiền tệ thế giới, mỗi quốc gia cần có một Cơ
quan Kiểm toán Quốc gia hoặc một tổ chức tương đương để
kiểm tra , xác nhận tính đúng đắn , hợp pháp của một số liệu và

chính sách tài chính trước khi công bố. KTNN là cơ quan ki
ểm tra
tài chính đ
ộc lập của một Quốc gia , chịu trách nhiệm đánh giá độ
trung thực của báo cáo tài chính; tính kinh tế và hiệu quả hoạt
động quản lý; nếu những thông tin kiểm toán được công bố công
khai rộng rãi sẽ làm tăng thêm niềm tin của các nhà đầu tư trong
và ngoài nước, đồng thời tạo điều kiện để xã hội và người dân
được quyền tham gia giám sát . Bởi vậy cần thể chế hóa chi tiết
qui định về công khai kết quả kiểm toán và kết quả thực hiện kết
luận, kiến nghị kiểm toán ( trừ những bí mật nhà nước qui định ).

- Thứ ba, để KTNN thất sự là một công cụ kiểm tra , kiểm
soát có hiệu quả, điều cơ bản nhất là phải đảm bảo đư
ợc tính
độc lập trong hoạt động KTNN. Tính độc lập là vấn đề cốt lõi
của hoạt động KTNN, được hiểu trên hai góc độ : Kiểm toán phải
được hoàn thành độc lập, khách quan trong khi thực hiện nhiệm
vụ và được đảm bảo sự độc lập thông qua các quy định , chế tài
để tránh sự tác động trực tiếp hay gián tiếp . Điều này có nghĩa :
hoạt động của KTNN phải được chế định trong đạo luật gốc là
Hiến pháp, điều này cũng phù hợp với Tuyên b
ố Lima tại Hội nghị
lần thứ IX của Tổ chức Quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối
cao(INTOSAI) : “ Cơ quan kiểm toán tối cao chỉ có thể hoàn
thành nhiệm vụ của mình một cách khách quan và hiệu quả khi
nó độc lập với đơn vị được kiểm toán và đư
ợc đảm bảo chống lại
các ảnh hưởng từ bên ngoài”.
- Thứ tư, để nâng cao hiệu quả hoạt động của KTNN,

KTNN không chỉ dừng lại ở kiểm toán báo cáo tài chính và
kiểm toán tuan thủ mà cần triển khai và đẩy mạnh loại hình
kiểm toán hoạt động. Qua kiểm toán hoạt động sẽ có điều kiện
xác định tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong hoạt động thu –
chi tài chính nhà nước và những thất thoát do chi sai mục đích,
sai chế độ cũng như khuất tất trong quyết định đầu tư hoặc thực
hiện chương trình, dự án… Đồng thời , cần thiết triển khai kiểm
toán trách nhiệm kinh tế đối với cán bộ lãnh đạo và ngườ đứng
đầu cách Doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước hoặc Nhà nước
nắm cổ phần chi phối. Thực tế cho thấy đây là một trong những
biện pháp phòng chống gian lận và tham nhũng rất có hiệu quả.
Kết quả kiểm toán các hoạt động kinh tế của đơn vị trong nhiệm
kỳ của cán bộ lãnh đạo được các cấp quản lý lấy làm cơ sở để
đánh giá , bố trí và sử dụng cán bộ , thậm chí cách chức , bãi
miễn hoặc truy tố trước pháp luật nếu cán bộ đó có sai phạm.
- Thứ năm, chức năng của KTNN là kiểm toán đối với mọi
cơ quan tổ chức quản lý , sử dụng ngân sách , tiền và tài s
ản
nhà nước; nhưng trên thực tế do hạn chế về nhân lực nên hàng
năm chỉ mới tiến hành kiểm toán được khoảng trên 30% số
NSNN cấp tinh thành phố , báo cáo tài chính của khoảng 20% số
bộ , ngành ở Trung ương và cũng mới chỉ thực hiện thẩm định,
kiểm tra một sô nội dung của báo cáo quyết toán NSNN… Bản
thân KTNN vẫn chưa thể tự trang trải toàn b
ộ kinh phí hoạt động ,
vẫn có trường hợp phải nhờ vả vào các đơn vị đư
ợc kiểm toán về
phương tiện đi lại, về chỗ nghỉ trong quá trình kiểm toán… Điều
đó ít nhiều ảnh hưởng đến việc đảm bảo yêu cầu độc lập và
khách quan trong hoạt động kiểm toán .

Để nâng cao chất lượng kiểm toán , đảm bảo thi hành đầy đủ
các qui định của Luật KTNN đòi hỏi phải bổ xung thêm cán bộ,
kiểm toán viên , nhất là những chuyên gia giỏi ở các lĩnh vực mà
KTNN co trách nhiệm kiểm toán. Đồng thời, Nhà nước cần đảm
bảo kinh phí đầy đủ cho các hoạt động kiểm toán, giảm dần và
tiến tới độc lập cơ bản kinh phí, hạn chế tối đa việc nhờ vả các
đơn vị được kiểm toán.
- Thứ sáu, khẩn trương khôi phục và t
ạo lập hệ thống kiểm
soát nội bộ trong từng cơ quan, từng tổ chức, đảm bảo mọi
quy trình nghiệp vụ, quy trình hoạt động , đặc biệt các quy trình
lien quan đến tài sản , ngân quỹ ; chọn lựa , bổ nhiệm, sắp xếp
nhân sự… được quy định chặt chẽ hợp lý, được tuân thủ nghiêm
ngặt. tăng cường kiểm tra , thanh tra việc thực hiện chế độ của
công chức , khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi người phát
huy quyền làm chủ theo pháp luật, phát hiện và đấu tranh với
hiện tượng vi phạm, nhũng nhiễu trong quản lý tài chính nhà
nước
- Thứ bảy, cần đảm bảo và tôn tr
ọng tối đa tính độc lập của
KTNN, đặc biệt là trong quyết định kế hoạch kiểm toán và tiến
hành các hoạt động kiểm toán . Tính độc lập là vấn đè cốt lõi và
xương sống của hoạt động kiểm toán , được hiểu theo cả hai
khía cạnh : Kiểm toán phải hoàn thành độc lập , khách quan, vô
tư trong khi thực hiện nhiệm vụ và phải đảm bảo sự độc lập bằng
các qui định, các chế tài để tránh mọi sự tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp. Khi tiến hành hoạt động nghiệp vụ , kiểm toán có thể
tiếp cận đày đủ các baengf chưng và nguồn gốc thong tin; vô tư
và khách quan trong thu thập xem xét, đánh giá thong tin , từ đó
có những kết luận , xác nhận tin cậy về thực trạng hoạt độn

g kinh
tế tài chính, về sự đầy đủ và chính xác của thong tin. Hoạt động
kiểm toán và kết quả kiểm toán làm yên long những người sử
dụng thong tin kế toán, sử dụng kết luận của kiểm toán. Đó là
những kết luận có bằng chứng được đánh giá. Hộ đồng dân tộc
và các Ủy ban Quốc hội, Ban kinh tế Ngân sách, các ban của hội
đồng nhân dân hoàn toàn yên long và có căn cứ pháp lý để thảo
luận, đưa ra nghị quyết về những vấn đề kinh tế - tài chính . Tất
nhiên các kết luận của kiểm toán cần được đánh giá là không có
dấu hiệu thiên vị, không phiến diện thiếu căn cứ , thiếu khách
quan hoặc mang tính chủ quan võ đoán… Cần có cơ chế đảm
bảo và kiểm tra tính độc lập , khách quan của từng kiểm toán vi
ên
trong mỗi cuộc kiểm toán.
- Thứ tám,đảm bảo độ tin cậy của thông tin do kiểm toán
xác nhận và cung cấp. Để Quốc hội có căn cứ thảo luận và
quyết định, thực hiện các hoạt động giám sát đòi hỏi phải có đủ
những tư liệu thông tin tối thiểu cần thiết. Thông tin cung cấp cho
quốc hội phải minh bạch và có độ tin cậy cao. Trước hết là các
thông tin về chiến lược và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
định hướng tài chính ngân sách , những ngân sách về đánh giá
trung hạn, nguồn thu và nhiệm vụ chi. Tăng cường tính minh
bạch của ngân sách trong trong giai đoạn lập dự toán , đặc biệt

các cơ sở dữ liệu và tiêu chí dùng cho vi
ệc dự tính các nguồn thu
và nhi
ệm vụ chi. Sớm chuyển sang áp dụng kế toán dồn tích thay
cho phương pháp kế toán thực thu thực xuất quỹ hiện nay, phản
ảnh xác thực hơn tình hình tài chính quốc gia và ngân sách nhà

nước theo nguyên tắc thừa nhận quyền và nghĩa vụ ngân sách
gắn với năm ngân sách, hoàn toàn không phải là số thực nhập v
à
thực xuất quỹ. Số liệu cung cấp cho Quốc hội phải có xác nhận
và đánh giá của cơ quan KTNN, phải đạt độ tin cậy cao nhất có
thể

×