Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

bệnh viêm gan siêu vi c

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.16 KB, 6 trang )

B nh Viêm gan siêu vi Cệ
Trước thập niên 90, người ta chỉ mới biết có bệnh Viêm gan siêu vi A và B. Sau đó từ
1989, một siêu vi khuẩn mới được phát hiện cũng có khả năng gây viêm gan, đó là
siêu vi C. Từ đó, các xét nghiệm mới để khảo sát siêu vi C ra đời. Khi làm các xét
nghiệm này cho những bệnh nhân bị viêm gan không phải A không phải B thì người ta
phát hiện đa số những người này có sự hiện diện của siêu vi C.
viem-gan-c
- Ngoài siêu vi A, B, C, bệnh viêm gan còn có thể gây ra do các loại siêu vi khác như siêu vi D, E, G…
Siêu vi C có giống siêu vi B hay không?
- Không. Đây là hai loại siêu vi hoàn toàn khác nhau về cấu trúc lẫn khả năng gây
bệnh nhưng cả hai loại siêu vi trên đều gây hư hại cho gan.
Có nhiều người bị bệnh này không?
- Người ta phỏng đoán có khoảng 150 – 200 triệu người đang mang siêu vi C mãn
tính trên toàn thế giới. Mỗi năm, cứ 100000 người, sẽ có từ 1-3 người mới mắc bệnh.
Tỷ lệ người nhiễm siêu vi C thay đổi theo từng vùng ( trung bình 0,1- 5% ). Ở Việt
Nam hiện nay, tỷ lệ này vào khoảng 2% và còn có khuynh hướng gia tăng.
Ngươi bị nhiễm siêu vi C bằng cách nào?
- Siêu vi C được lây truyền chủ yếu qua đường máu. Do vậy, vì bất cứ lý do gì mà
chúng ta tiếp xúc với máu của những người bị nhiễm siêu vi C thì đều có khả năng
mắc bệnh này. Khoảng 10 năm trước đây, những trường hợp nhiễm bệnh do truyền
máu chiếm 10%. Hiện nay, nhờ có các phương thức để tầm soát siêu vi C ở những
người cho máu, cho nên nguy cơ lây nhiễm sau truyền máu đã giảm đi đáng kể, chỉ
còn vào khoảng 0,5% ở các nước phát triển. Ở nước ta hiện nay, tại các bệnh viện và
1
các trung tâm y tế lớn, người ta đã đặc biệt chú ý đến việc tìm và loại bỏ các máu bị
nhiễm siêu vi C, HIV…
- Đường truyền bệnh khá quan trọng hiện nay là qua việc dùng chung kim và ống
chích. Có khoảng 60-90% những người chích xì ke sẽ bị nhiễm siêu vi C.Ngay cả khi
dùng kim và ống chích riêng, những người chích xì ke vẫn có thể bị nhiễm bệnh là do
họ vẫn dùng chung các vật dụng để chuẩn bị cho mũi chích như muỗng, màng lọc…
Ở những người hít cocain mà không chích xì ke vẫn có nguy cơ bị lây nhiễm siêu vi C


do việc chia xẻ các mẫu thuốc hít và do họ thường bị những vết trầy sướt hay loét ở
niêm mạc mũi. Những phương cách lây truyền khác:Qua tiếp xúc tình dục: khác với
siêu vi B, việc lây lan siêu vi C do tiếp xúc tình dục rất thấp nếu chúng ta giữ chế độ ”
Một vợ, một chồng “.
- Tỉ lệ lây nhiễm từ mẹ sang con thay đổi từ 0,3%, nếu mẹ bị nhiễm thêm HIV thì
khả năng lây truyền siêu vi C cho con có thể lên đến 20-30% Châm cứu, xâm mình,
xỏ lỗ tai, dùng chung bàn chải đánh răng, dao cạo râu…với người bị bệnh.
- Do sử dụng các dụng cụ không đảm bảo sát trùng đầy đủtrong lúc mổ hoặc khi
thực hiện các thủ thuật như nội soi, sinh thiết, chữa răng…Tuy nhiên, có khoảng 20-
40% bệnh nhân bị viêm gan C mà không tìm được nguồn lây rõ ràng.
Làm thế nào để biết mình bị viêm gan siêu vi C?
-Đa số những người bị nhiễm siêu vi C không hề hay biết mình bị bệnh vì phần lớn họ
không có triệu chứng gì. Nếu có, triệu chứng cũng gần tương tự như một số bệnh
khác ví dụ như mệt mỏi, chán ăn, rối loạn tiêu hóa, sụt cân hay đôi khi có đau tức
vùng dưới sườn bên (P).Rất ít trường hợp bệnh nhân có triệu chứng vàng da, vàng
mắt.Một điều đáng lưu ý là không có sự liên quan rõ rệt giữa triệu chứng và mức độ
nặng nhẹ của bệnh.
Nói một cách khác, có những người than phiền rất nhiều triệu chứng nhưng mức độ
viêm gan lại nhẹ; ngược lại có những người không cảm thấy có triệu chứng gì nhưng
tình trạng viêm nhiễm ở gan lại đang tiến triển khá nhiều.
Việc phát hiện nhiễm siêu vi C thường là tình cờ đứng trước một trường hợp có xét
nghiệm men gan tăng cao hơn bình thường khi bệnh nhân đi khám sức khỏe định kỳ,
chuẩn bị trước mổ…Lúc đó, để tìm nguyên nhân của bệnh gan, các bác sĩ thường
cho làm xét nghiệm tầm soát siêu vi B và C. Những trừơng hợp khác thừơng được
phát hiện khi bệnh nhân đi hiến máu.
2
Xét nghiệm phát hiện virut viêm gan.

Muốn biết bị nhiễm siêu vi C, cần làm
các xét nghiệm gì?

- Xét nghiệm dùng để tầm soát tình trạng
nhiễm siêu vi C là anti-HCV. Đây là một loại kháng thể do cơ thể tạo ra để phản ứng
lại với một vài thành phần cấu tạo của siêu vi. Khi anti-HCV dương tính thì không có
nghĩa là cơ thể đã tạo được yếu tố bảo vệ chống lại bệnh này mà chỉ chứng tỏ rằng
bệnh nhân đã hoặc đang bị nhiễm siêu vi C. Nói một cách khác, bệnh nhân không
được ” miễn dịch “với bệnh khi có anti-HCV dương tính.
Cần lưu ý rằng trong một số trường hợp, lúc đầu anti-HCV âm tính nhưng sau 1-2
tháng thử lại thì thấy dương tính. Đó là do anti-HCV thường xuất hiện muộn sau khi bị
nhiễm siêu vi C. - Muốn xác định chắc chắn sự hiện diện diện của siêu vi C, người ta
có thể làm thêm xét nghiệm tìm HCV-RNA trong máu. Đây là một xét nghiệm khá đắt
tiền vì vậy chỉ nên làm khi nào các bác sĩ chuyên khoa Gan thấy thật cần thiết như để
quyết định điều trị hay theo dõi điều trị nhằm tránh lãng phí tiền bạc.
Bác sĩ có thể đề nghị làm sinh thiết gan cho bạn. Đây là phương pháp thực hiện bằng
cách dùng kim nhỏ chích qua da, vào gan để lấy ra một ít tế bào gan và đem quan sát
dưới kinh hiển vi. Xét nghiệm này cho phép các Bác sĩ xác định được mức độ hư hại
của gan, chẩn đoán giai đoạn bệnh, quyết định và đánh giá hiệu qủa điều trị một cách
chính xác nhất.
Những người nào cần tầm soát xem có nhiễm siêu vi C?
Trước tiên là những người đi hiến máu để đảm bảo các loại máu truyền cho người
khác không gây nhiễm siêu vi C. Kế đến là những người đã từng được truyền máu và
nhất là phải truyền máu nhiều lần như những người bị bệnh ưa chảy máu, chạy thận
nhân tạo…Sau đó là những người chích xì ke. Các đối tượng này không phải xét
nghiệm tìm siêu vi C mà còn phải tìm cả siêu vi B, HIV…
3
Ngoài ra, trẻ sơ sinh của những bà mẹ bị nhiễm siêu vi C, những người được mổ
nhiều lần,châm cứu, xâm mình, các nhân viên y tế…cũng nên được làm xét nghiệm
tìm siêu vi C.
Phải làm gi khi được chẩn đoán là bị nhiễm siêu vi C?
Khi bị nhiễm siêu vi C tình trạng nhiễm siêu vi C mãn tính. Trong giai đoạn này, gan có
thể tiếp tục bị hư h, 80-85% bệnh nhân không có khả năng loại trừ siêu vi ra khỏi cơ

thể và sẽ chuyển sang ại. Để đánh giá tình trạng trên, bạn nên đến bác sĩ chuyên
khoa để được làm một số xét nghiệm về gan như men SGOT ( AST ) và SGPT ( ALT).
Một điều đáng lưu ý rằng trong giai đoạn viêm gan C mãn tính, mengan có thể thay
đổi bất thường: lúc tăng lúc giảm về trị số bình thường, cho nên khi thấy xét nghiệm
men gan bình thường không cónghĩa là bệnh đã ổn định mà cần theo dõi men gan
mỗi tháng, ít nhất là 3 lần liên tiếp mới đánh giá được tình trạng hư hại của gan.
Bệnh viêm gan siêu vi C có nguy hiểm gì không?
- Một trong những đặc điểm quan trọng của nhiễm siêu vi C là đa số bệnh nhân sẽ
không có khả năng tự loại trừ siêu vi ra khỏi cơ thể và họ sẽ trở thành người mang
siêu vi C mãn tính.Trong số đó, 25% bệnh nhân có men gan bình thường, tình trạng
tiến triển sang viêm gan mãn rất chậm và gan bị hư hại rất ít, họ được gọi là người ”
lành ” mang siêu vi C. Các bệnh nhân còn lại sẽ chuyển sang viêm gan C mãn tính.
Do chưa được cảnh báo đầy đủ nên người dân chưa hiểu rõ, ít chú ý đến viêm
gan do siêu vi C (HCV) bằng viêm gan do siêu vi B (HBV). Nhưng thật ra, HCV
nguy hiểm không kém gì HBV và cần dùng thuốc điều trị đúng, sớm và kiên trì.
Có khoảng 60% nhiễm HCV không có triệu chứng, 39% cảm thấy mệt (giống như
cảm cúm, chán ăn, buồn nôn, có thể đau khớp, đau bụng nhẹ), ít khi có biểu hiện
vàng da, sậm màu nước tiểu, chỉ 1% có các biểu hiện nặng.
Trong tổng số nhiễm HCV có khoảng 15% tự hồi phục, 85% chuyển qua thể mạn. Thể
mạn thường âm thầm kéo dài hàng chục năm và chỉ phát hiện được khi đã có diễn
biến nghiêm trọng (xơ gan, báng bụng, giãn mạch máu đường tiêu hóa, vỡ mạch gây
chảy máu ồ ạt, tử vong). Trong số 85% chuyển qua mạn thì có 20% bị xơ gan và có
khoảng 3% trong số xơ gan bị ung thư gan.
HCV có thể thuộc typ gen-1 ít đáp ứng với thuốc, hiệu quả điều trị thấp (chỉ 20%) týp
gen- 2-3 đáp ứng với thuốc tốt hơn, hiệu quả điều trị có khi tới 97%-100%. Do nhiễm
HCV ở các typ gen khác nhau, khả năng đáp ứng thuốc của các quần thể dân cư
khác nhau nên hiệu quả điều trị khá dao động. Ví dụ, nhiễm HCV typ gen-1 dùng công
4
thức điều trị chuẩn interferon pegylat + ribavirin ở người Mỹ gốc Phi hiệu quả điều trị
đạt 26%, trong khi người Mỹ gốc châu Âu là 39%.

Một khó khăn trong điều trị bệnh là người bệnh khó nhận biết mình bị mắc bệnh,
thường đến bệnh viện muộn có khi đã xơ gan (khó điều trị); khi điều trị thì có thể đáp
ứng sớm, muộn hay không đáp ứng, thời gian điều trị kéo dài (thường là 12 tháng),
kết quả dao động, chi phí điều trị cao nên có người bỏ dở, thậm chí không muốn điều
trị.
Thuốc cơ bản điều trị HCV
Công thức chuẩn (hiện thường dùng) gồm interferon pegylat + ribaririn
-Interferon: tác động vào hệ miễn dịch (làm tăng kích thước tế bào miễn dịch và đại
thực bào), kháng lại sự nhân đôi (sinh sản) của virut. Chỉ dùng đường tiêm (vì bị thủy
phân khi uống), có loại chỉ tiêm tĩnh mạch mà không tiêm bắp (vì bị hủy trong bắp
thịt). Phải tiêm 3 lần trong mỗi tuần, kéo dài 12 tháng. Lúc mới dùng thuốc người
bệnh có thể bị sốt sau khi tiêm (do khởi động miễn dịch của cơ thể, nên uống
paracetamol trước khi tiêm 1 giờ, tiêm vào buổi tối). Interferon pegylat cho hiệu quả
cao hơn interferon.
-Ribavirin là kháng sinh dạng uống ức chế tổng hợp acid nucleic của virut nói chung
nhưng với HCV tỏ ra nhạy cảm hơn các kháng sinh khác thuộc dòng này. Trong công
thức chuẩn, vai trò ribavirin là kháng trực tiếp HCVvà chống lại sự kháng thuốc.
Nhiều nghiên cứu cho biết dùng interferon pegylat+ ribavirin cho kết quả cao (sạch
virut) ngay cả với những người trước đây đã thất bại với đơn trị liệu inteferon hay
ribavirin hoặc đã thất bại với trị liệu interferon+ ribavirin.
Các nghiên cứu cho biết dùng liều interferon 1,5mcg/kg/tuần và ribavirin
10,6mg/kg/ngày (và có điều chỉnh theo trạng thái đáp ứng) cho hiệu quả tốt hơn dùng
theo liều cố định.
Tuy nhiên khi dùng thuốc, có thể có tác dụng phụ về tâm thần thần kinh (nếu nặng
phải ngừng thuốc), có thể giảm bạch cầu, gây tán huyết (tác dụng phụ này do
interferon, hạn chế bằng cách giảm liều hoặc cho truyền chất kích thích tạo máu
epoetin mà không cần giảm liều hoặc dùng tiền chất viramidin thì không bị tán huyết
như ribavirin song đều chưa ứng dụng lâm sàng).
Hiệu quả điều trị lệ thuộc vào typ gen HCV và đáp ứng của người bệnh:
- Nếu sau 12 tuần, số lượng virut giảm 100 lần so với trước điều trị là “đáp ứng sớm”,

và sau 12 hay 24 tuần HCVRNA âm tính thì tiếp tục điều trị cho đủ 12 tháng, kết quả
đến 97%-100%. Người nhiễm HCV typ gen-2-3 thường đáp ứng sớm, typ gen -1
thường ít khi đáp ứng sớm. Người bệnh đáp ứng sớm thường và cho kết quả khả
quan, virut bị loại, không tái phát (sau 5 năm theo dõi), thuật ngữ chuyên môn gọi là
“chữa khỏi bệnh”.
- Nếu sau 12 tuần mà lượng virut chỉ giảm 10 lần so với trước điều trị thì gọi là “không
đáp ứng sớm” và sau 24 tuần điều trị nếu lượng virut vẫn tiếp tục giảm, HCVRNA âm
5
tính thì tiếp tục điều trị. Người bệnh nhiễm HCV typ gen-1 thường ít đáp ứng sớm và
đa phần thuộc diện này. Tuy hiệu quả không khỏi như trường hợp trên, nhưng cần
tiếp tục trị liệu vì sẽ làm chậm sự tiến triển, ngăn ngừa xơ gan và ung thư gan
- Nếu sau 12 tuần hay chắc chắn nhất là sau 24 tuần mà lượng virus không tiếp tục
giảm so với trước và HCVRNA dương tính thì không tiếp tục điều trị theo công thức
chuẩn này mà chuyển sang cách điều trị khác.
Như vậy, sau 12 tuần hoặc chắc chắn là sau 24 tuần thầy thuốc có thể cho biết triển
vọng điều trị và điều cần tiếp tục. Người bệnh cần biết rõ, thực hiện đầy đủ liệu trình.
Các thuốc mới đưa vào điều trị
Telaprevid: Một nghiên cứu cho thấy dùng interferon pegylat+ ribavirin + telaprevid đạt
hiệu quả cao so với nhóm chỉ dùng interferon pegylat+ ribavirin hoặc interferon
pegylat + telaprevid (69-80% so với 13%). Một nghiên cứu khác cho thấy nếu sau 12
tuần dùng 3 thuốc (như trên) lại tiếp tục kéo dài thêm 12 tuần nữa (tổng cộng 24 tuần)
thì kết quả cao hơn là không tiếp tục dùng thêm 2 thuốc interferon pegylat+ ribavirin.
Như vậy, telaprevid tuy tốt, song phải kết hợp với interferon pegylat và ribavirin
Boceprevid: Một nghiên cứu cho biết dùng interferon pegylat + ribavirin +boceprevid
cho hiệu quả cao hơn nhóm interferon pegylat + ribavirin +giả dược. Như vậy, tuy
boceprevid tốt song phải kết hợp với interferon pegylat và ribavirin. Và hiện vẫn chưa
có thuốc mới nào thay thế được hoàn toàn công thức chuẩn.
Các thuốc dạng nghiên cứu
Chất BILN-2061 ức chế enzym protease NS-3, sau khi dùng 48 giờ, làm giảm HCV từ
100-1000 lần bao gồm cả người nhiễm HCV typ gen-1, đã có tiến triển đến xơ gan, đã

thất bại khi dùng với interferon. Chất NM-283 ức chế enzym polymease NS-5b sau khi
dùng thuốc 2 tuần thì lượng HCV giảm 50-100 lần. Cả hai chất, khi ngừng dùng thì
HCV tăng trở lại, dùng tiếp thì bị độc. Hiện chất này vẫn đang được nghiên cứu chưa
đưa vào sử dụng.
Theo một số nghiên cứu ở nước ta có khoảng 2% dân số nhiễm HCV (năm 2000)
nhưng ở một số bệnh viện nhiễm HCV chiếm tới 39% trong tổng số người bị viêm gan
siêu vi, ước tới 9-14% dân số (2005). Có thể sau này người dân quan tâm đến sức
khỏe, đến các bệnh viện để xét nghiệm nên con số phát hiện nhiễm HCV cao hơn.
Dẫu chỉ tham khảo nhưng con số trên cho biết nhiễm HCV đang trở nên phổ biến cần
phát hiện điều trị đúng, sớm và kiên trì.
6

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×