Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu Viêm gan siêu vi C và việc dùng thuốc doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.14 KB, 6 trang )

Viêm gan siêu vi C và việc dùng thuốc

Xét nghiệm phát hiện virut viêm gan.
Do chưa được cảnh báo đầy đủ nên người dân chưa hiểu rõ, ít chú ý
đến viêm gan do siêu vi C (HCV) bằng viêm gan do siêu vi B (HBV). Nhưng
thật ra, HCV nguy hiểm không kém gì HBV và cần dùng thuốc điều trị đúng,
sớm và kiên trì.
Có khoảng 60% nhiễm HCV không có triệu chứng, 39% cảm thấy mệt
(giống như cảm cúm, chán ăn, buồn nôn, có thể đau khớp, đau bụng nhẹ), ít khi có
biểu hiện vàng da, sậm màu nước tiểu, chỉ 1% có các biểu hiện nặng.
Trong tổng số nhiễm HCV có khoảng 15% tự hồi phục, 85% chuyển qua
thể mạn. Thể mạn thường âm thầm kéo dài hàng chục năm và chỉ phát hiện được
khi đã có diễn biến nghiêm trọng (xơ gan, báng bụng, giãn mạch máu đường tiêu
hóa, vỡ mạch gây chảy máu ồ ạt, tử vong). Trong số 85% chuyển qua mạn thì có
20% bị xơ gan và có khoảng 3% trong số xơ gan bị ung thư gan.
HCV có thể thuộc typ gen-1 ít đáp ứng với thuốc, hiệu quả điều trị thấp (chỉ
20%) týp gen- 2-3 đáp ứng với thuốc tốt hơn, hiệu quả điều trị có khi tới 97%-
100%. Do nhiễm HCV ở các typ gen khác nhau, khả năng đáp ứng thuốc của các
quần thể dân cư khác nhau nên hiệu quả điều trị khá dao động. Ví dụ, nhiễm HCV
typ gen-1 dùng công thức điều trị chuẩn interferon pegylat + ribavirin ở người Mỹ
gốc Phi hiệu quả điều trị đạt 26%, trong khi người Mỹ gốc châu Âu là 39%.
Một khó khăn trong điều trị bệnh là người bệnh khó nhận biết mình bị mắc
bệnh, thường đến bệnh viện muộn có khi đã xơ gan (khó điều trị); khi điều trị thì
có thể đáp ứng sớm, muộn hay không đáp ứng, thời gian điều trị kéo dài (thường
là 12 tháng), kết quả dao động, chi phí điều trị cao nên có người bỏ dở, thậm chí
không muốn điều trị.
Thuốc cơ bản điều trị HCV
Công thức chuẩn (hiện thường dùng) gồm interferon pegylat + ribaririn
Interferon: tác động vào hệ miễn dịch (làm tăng kích thước tế bào miễn
dịch và đại thực bào), kháng lại sự nhân đôi (sinh sản) của virut. Chỉ dùng đường
tiêm (vì bị thủy phân khi uống), có loại chỉ tiêm tĩnh mạch mà không tiêm bắp (vì


bị hủy trong bắp thịt). Phải tiêm 3 lần trong mỗi tuần, kéo dài 12 tháng. Lúc mới
dùng thuốc người bệnh có thể bị sốt sau khi tiêm (do khởi động miễn dịch của cơ
thể, nên uống paracetamol trước khi tiêm 1 giờ, tiêm vào buổi tối). Interferon
pegylat cho hiệu quả cao hơn interferon.
Ribavirin là kháng sinh dạng uống ức chế tổng hợp acid nucleic của virut
nói chung nhưng với HCV tỏ ra nhạy cảm hơn các kháng sinh khác thuộc dòng
này. Trong công thức chuẩn, vai trò ribavirin là kháng trực tiếp HCVvà chống lại
sự kháng thuốc.
Nhiều nghiên cứu cho biết dùng interferon pegylat+ ribavirin cho kết quả
cao (sạch virut) ngay cả với những người trước đây đã thất bại với đơn trị liệu
inteferon hay ribavirin hoặc đã thất bại với trị liệu interferon+ ribavirin.
Các nghiên cứu cho biết dùng liều interferon 1,5mcg/kg/tuần và ribavirin
10,6mg/kg/ngày (và có điều chỉnh theo trạng thái đáp ứng) cho hiệu quả tốt hơn
dùng theo liều cố định.
Tuy nhiên khi dùng thuốc, có thể có tác dụng phụ về tâm thần thần kinh
(nếu nặng phải ngừng thuốc), có thể giảm bạch cầu, gây tán huyết (tác dụng phụ
này do interferon, hạn chế bằng cách giảm liều hoặc cho truyền chất kích thích tạo
máu epoetin mà không cần giảm liều hoặc dùng tiền chất viramidin thì không bị
tán huyết như ribavirin song đều chưa ứng dụng lâm sàng).
Hiệu quả điều trị lệ thuộc vào typ gen HCV và đáp ứng của người bệnh:
- Nếu sau 12 tuần, số lượng virut giảm 100 lần so với trước điều trị là “đáp
ứng sớm”, và sau 12 hay 24 tuần HCVRNA âm tính thì tiếp tục điều trị cho đủ 12
tháng, kết quả đến 97%-100%. Người nhiễm HCV typ gen-2-3 thường đáp ứng
sớm, typ gen -1 thường ít khi đáp ứng sớm. Người bệnh đáp ứng sớm thường và
cho kết quả khả quan, virut bị loại, không tái phát (sau 5 năm theo dõi), thuật ngữ
chuyên môn gọi là “chữa khỏi bệnh”.
- Nếu sau 12 tuần mà lượng virut chỉ giảm 10 lần so với trước điều trị thì
gọi là “không đáp ứng sớm” và sau 24 tuần điều trị nếu lượng virut vẫn tiếp tục
giảm, HCVRNA âm tính thì tiếp tục điều trị. Người bệnh nhiễm HCV typ gen-1
thường ít đáp ứng sớm và đa phần thuộc diện này. Tuy hiệu quả không khỏi như

trường hợp trên, nhưng cần tiếp tục trị liệu vì sẽ làm chậm sự tiến triển, ngăn ngừa
xơ gan và ung thư gan
- Nếu sau 12 tuần hay chắc chắn nhất là sau 24 tuần mà lượng virus không
tiếp tục giảm so với trước và HCVRNA dương tính thì không tiếp tục điều trị theo
công thức chuẩn này mà chuyển sang cách điều trị khác.
Như vậy, sau 12 tuần hoặc chắc chắn là sau 24 tuần thầy thuốc có thể cho
biết triển vọng điều trị và điều cần tiếp tục. Người bệnh cần biết rõ, thực hiện đầy
đủ liệu trình.
Các thuốc mới đưa vào điều trị
Telaprevid: Một nghiên cứu cho thấy dùng interferon pegylat+ ribavirin +
telaprevid đạt hiệu quả cao so với nhóm chỉ dùng interferon pegylat+ ribavirin
hoặc interferon pegylat + telaprevid (69-80% so với 13%). Một nghiên cứu khác
cho thấy nếu sau 12 tuần dùng 3 thuốc (như trên) lại tiếp tục kéo dài thêm 12 tuần
nữa (tổng cộng 24 tuần) thì kết quả cao hơn là không tiếp tục dùng thêm 2 thuốc
interferon pegylat+ ribavirin. Như vậy, telaprevid tuy tốt, song phải kết hợp với
interferon pegylat và ribavirin
Boceprevid: Một nghiên cứu cho biết dùng interferon pegylat + ribavirin
+boceprevid cho hiệu quả cao hơn nhóm interferon pegylat + ribavirin +giả dược.
Như vậy, tuy boceprevid tốt song phải kết hợp với interferon pegylat và ribavirin.
Và hiện vẫn chưa có thuốc mới nào thay thế được hoàn toàn công thức chuẩn.
Các thuốc dạng nghiên cứu
Chất BILN-2061 ức chế enzym protease NS-3, sau khi dùng 48 giờ, làm
giảm HCV từ 100-1000 lần bao gồm cả người nhiễm HCV typ gen-1, đã có tiến
triển đến xơ gan, đã thất bại khi dùng với interferon. Chất NM-283 ức chế enzym
polymease NS-5b sau khi dùng thuốc 2 tuần thì lượng HCV giảm 50-100 lần. Cả
hai chất, khi ngừng dùng thì HCV tăng trở lại, dùng tiếp thì bị độc. Hiện chất này
vẫn đang được nghiên cứu chưa đưa vào sử dụng.

×