Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Phân tích bài thơ ''''Vội Vàng'''' - Xuân Diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.46 KB, 30 trang )

PHÂN TÍCH BÀI THƠ "VỘI VÀNG" (XUÂN DIỆU)
1/Yêu cầu chung:
-Mở bài: nêu những nét khái quát về tác giả, tác phẩm, nêu chủ đề mình muốn nói (vội
vàng" là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây, từng
phút của cuộc đời mình, nhất là những tháng năm của tuổi trẻ, của một hồn thơ yêu đời,
ham sống đến cuồng nhiệt"
-Thân bài: phân tích bài thơ Vội vàng (đồng thời phải diễn giải, dẫn chứng cho chủ đề là
lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây, từng phút của
cuộc đời mình, nhất là những tháng năm của tuổi trẻ, của một hồn thơ yêu đời, ham sống
đến cuồng nhiệt
-Kết bài: Kết luận bài thơ và đồng cảm với nhà thơ về quan niệm sống, tuổi trẻ
2/ Bài văn tham khảo
Nhà thơ Thế Lữ, trong lời Tựa cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, đã có nhận xét khá tinh
tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây
dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” . Đã hơn hai mươi năm Xuân Diệu giã từ
chúng ta vào cõi hư vô, nhưng “tấm lòng trần gian” của ông dường như vẫn còn ở lại. Cứ
mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ của các thế hệ học sinh lại rung lên những cảm
xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn
với niềm khát khao giao cảm với đất trời, con người tràn mê đắm của thi nhân, trong mùa
xuân diệu kì!Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi
vào thi ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam
1932 – 1945, mùa xuân còn gắn với cái tôi cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các nhà thơ
mới. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”, một
Nguyễn Bính với “mùaxuân là cả một mùa xanh…”. Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là
người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội
vàng là lời tâm tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi hai mươi căng nhựa sống.
Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái của Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ hồi
viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã thấy “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh
trời, sống vội vàng, sống cuốn quýt”. Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái
tên Vội vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự họa của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ
rất hiểu mình. Thực ra, cái điệu sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu


xa từ ý thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là một kết cục
không tránh khỏi mai hậu. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao diệu kỳ. Mà sống là phải tận
hiến và tận hưởng! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đã
đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy
luôn giục giã, gấp gáp. Bài thơ này được viết ra từ cảm niệm triết học ấy.Thông thường,
yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ nghiêng về cảm xúc
rất “ngại” đi cùng chính luận. Ấy thế nhưng nhu cầu phô bày tư tưởng, nhu cầu lập thuyết
lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân Diệu hiển nhiên là loại thơ xúc cảm.
Nhưng đọc kỹ sẽ thấy rằng thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm xúc
làm nên cái nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mây trôi, nước chảy trên bề
mặt của văn bản thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm
nên cái tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị. Vội
vàng cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột cuốn theo bao hình ảnh thi ca
như gấm như thêu của cảnh sắc trần gian.
Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh về
lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang minh họa cho triết học. Mà đó chính là minh
triết của một hồn thơ. Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố
cục của Vội vàng. Thi phẩm khá dài nhưng tự nó hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột
mốc ranh giới giữa hai phần đặt vào ba chữ “Ta muốn ôm”. Phần trên nghiêng về luận
giải cái lí do vì sao cần sống vội vàng. Phần dưới là bộc lộ cái hành động vội vàng ấy.
Nói một cách vui vẻ: trên là lý thuyết, dưới là thực hành!
Điều rất dễ thấy là thi sĩ chọn cách xưng hô cho từng phần. Ở trên, xưng “tôi”, lập thuyết
đối thoại với đồng loại. Ở dưới, xưng “ta”, đối diện với sự sống. Phần luận lí có xu hướng
cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ dào dạt, sôi nổi đã xóa mọi cách ngăn,
khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và truyền cảm. Mở đầu bài
thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. Ấy là cái ước muốn quay
ngược quy luật tự nhiên – một ước muốn không thể:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi
Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió”, thật là những ham muốn kỳ dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng
làm sao cưỡng được quy luật, làm sao có thể vĩnh viễn hóa được những thứ vốn ngắn
ngủi mong manh ấy? Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu
bồng bột vô bờ đối với cái thế giới thắm sắc đượm hương này. Thế giới này được Xuân
Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường trên mặt đất, như
một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu
đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường
sắc hương đó hiện ra trong Vội vàng vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đương lúc
lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình
đầy đắm say. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng. Ấy là hưởng thụ thiên
nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên. Hãy
xem cách diễn tả vồ vập về thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực xuân tình:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Có lẽ trước Xuân Diệu trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác “Tháng giêng ngon như một
cặp môi gần”. Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy
tháng giêng mơn mởn non tơ đầy một sức sống thanh tân kia mà sao quyến rũ – tháng
giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một người tình rạo rực,
đắm say. Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết bằng cái logic luận lí ngầm của
nó. Thi sĩ muốn “tắt nắng”, “buộc gió” chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho trần thế này
đây. Hương sắc là cái sinh khí của nó, là cái vẻ đẹp, cái nhan sắc của nó. Tất cả chỉ rực rỡ
trong độ xuân thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ ba của phần
luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của xuân thì đối với sự sống
và cái xuân thì của con người. Phải, cái thế giới này lộng lẫy nhất, “ngon” nhất là ở độ
xuân; còn con người cũng chỉ hưởng thụ được cái “ngon” kia khi còn trẻ thôi. Mà cả hai

đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu tiên, thơ ca Việt
Nam có được cái quan niệm này:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn no nghĩa là xuân sẽ già.
Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn với cái chu
kỳ bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu ngàn ngày của kiếp người. Con người hiện
đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một
khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !
Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại thì làm chi có sự
tuần hoàn ! Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con
người thật là ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã
đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Và đem đến một cảm nhận đầy tính lạ hóa về thời gian và không gian:
Mùi tháng năm đền rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép “tương giao” của lối thơ tượng trưng,
Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới.
Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác: “Mùi tháng năm” – thời gian của Xuân Diệu
được làm bằng hương – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn buộc gió lại ư? Một chữ “rớm” cho
thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác.
Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ “vị” liền đó, lại cho thấy cảm giác thơ đã
chuyển qua vị giác. Và đây là một vị hoàn toàn phi vật chất: “vị chia phôi” ! Thì ra chữ
“rớm” và chữ “vị” này đều từ một hình ảnh ẩn hiện là giọt lệ chia phôi đó. Vì sao thời
gian lại mang cái hương vị - hình thể của chia phôi? Ấy là những cảm giác chân thực hay
chỉ là trò diễn của ngôn ngữ theo kịch bản của phép “tương giao”? Cái tinh tế của Xuân
Diệu chính là ở đấy ! Thi sĩ cảm thấy thật hiển hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại

để trở thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn.
Trên mỗi thời khắc đều đang diễn ra một cuộc chia tay của thời gian với con người, với
không gian và với cả chính thời gian. Cho nên thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang
khắp núi sông này, một lời than vĩnh viễn: than thầm tiễn biệt. Không gian đang tiễn biệt
thời gian ! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước
vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi !Thế đấy, không thể buộc gió,
không thể tắt nắng, cũng không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là
chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống: Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm Đến đây phần luận giải của tuyên ngôn vội vàng
đã đủ đầy luận lý !] Bài thơ được kết thúc bằng những cảm xúc mãnh liệt, bằng những
tham muốn mỗi lúc một cuồng nhiệt , vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với thiên nhiên,
ái ân cùng sự sống. Chỉ có thể diễn tả như thế, Xuân Diệu mới phô diễn được cái lòng
ham sống, khát sống sung mãn của mình:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nướ[c, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy
đủ nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập
của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làm sóng ngôn từ đan
chéo nhau, giao thoa và song song vỗ vào tâm hồn người đọc. Cái điệp ngữ “ta muốn”
được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi
liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm – riết –
say – thâu – cắn. Có thể nói câu thơ “Và non nước, và cây, và cỏ rạng” là không thể có
đối với thư pháp trung đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối với thơ xưa, đó sẽ

là câu thơ vụng. Tại sao lại thừa thãi liên từ “và” đến thế ? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của
nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những chữ “và” hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng
cái giọng nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân
Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc tham lam đang trào lên
mãnh liệt trong lòng ngực yêu đời của thi sĩ !
Câu thơ:
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ “cho” điệp lại với mức độ tăng tiến
nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thỏa thuê: chuếnh choáng – đã đầy – no nê. Sóng cứ
càng lúc càng dâng cao, càng vỗ mạnh, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh:Hỡi xuân hồng, ta muốn
cắn vào ngươi !Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhụy đã no nê đang lảo đảo bay
đi. Lại thấy thi sĩ như một tình lang trong cuộc tình chuếnh choáng men say.
Có thể nói Xuân Diệu qua bài thơ này không chỉ "sống" hay "ham sống" mà ông "say
sống". Sống mãnh liệt, hối hả kẻo nữa lại tiếc nuối - Đó là một nhân sinh quan lành
mạnh. Nó khác với sự nguội lạnh, hờ hững, lạt lẽo. Bài thơ là nhịp đập gấp gáp trước
"thanh sắc trần gian" một ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán sống.
Sống là hạnh phúc. Muốn đạt tới hạnh phúc phải sống vội vàng. Thế là, vội vàng là cách
đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc, và hình như cũng là cái giá phải trả cho hạnh
phúc vậy ! Ta hiểu vì sao khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ !
Sưu tầm
View more random threads same category:
Tư liệu về nhà thơ Nguyễn Khuyến 10/12/2009 9:02 AM
Nét cổ điển và hiện đại trong bài thơ 22/12/2009 8:46 PM
Giúp em về một đề nghị luận xã hội 14/04/2010 9:41 AM
Cảnh thu trong thơ Trung đại Việt Nam 22/08/2009 9:32 AM
“Thề non nước” _ thi sĩ Tản Đà. 08/09/2009 10:22 AM
Hướng dẫn soạn văn theo giáo án, chương 25/09/2009 12:07 PM
Tư liệu về tác giả Nguyễn Công Trứ 04/11/2009 7:58 AM
Thạch Lam 03/08/2009 2:26 AM

Tác giả Nguyễn Đình Chiểu 29/10/2009 10:34 AM
Tư liệu về tác giả Nguyễn Tuân 03/11/2009 6:28 AM
thay đổi nội dung bởi: Dĩ Vãng 10, 02-08-2010 lúc 06:54 PM
Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để in
dấu lại trên mặt đất, in dấu lại trong trái tim người khác.
Yêu mọi người, tin vài người và không xúc phạm đến ai
Trả Lời Với Trích Dẫn
12-21-2009 01:06 AM #2
songngu
Xem Hồ Sơ
View Forum Posts
Nhắn Tin Riêng
Registered Users
Join Date
Dec 2009
Bài gởi
58
Thanks
0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian;
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng chợt tắt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi ! chẳng bao giờ nữa
Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Rút từ tập Thơ Thơ, 1938)


Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ hồi viết
Thi nhân Việt nam, Hoài Thanh đã thấy "Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời,
sống vội vàng, sống cuống quýt". Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tựa
đề Vội vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự hoạ của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ
rất hiểu mình.
Thực ra, cái điệu sống vội vàng cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về
thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là kết cục không thể tránh khỏi
mai hậu. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao kì diệu. Mà sống là phải tận hưởng và tận
hiến! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên
phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã,
gấp gáp.
Bài thơ này được viết ra từ cảm niệm triết học ấy.
Thông thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ
nghiêng về cảm xúc rất "ngại" cặp kè với chính luận. Thế nhưng, nhu cầu phô bày tư
tưởng, nhu cầu lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân Diệu hiển
nhiên thuộc loại thơ cảm xúc. Nhưng đọc kĩ sẽ thấy thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính
luận. Nếu như cảm xúc làm nên cái nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mây
trôi nước chảy trên bề mặt của văn bản thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại ẩn mình,
lặn xuống bề sâu, làm nên cấu tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự
nhiên, nhuần nhị. Vội vàng cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột có lúc đã
thực sự là một cơn lũ cảm xúc, cuốn theo bao nhiêu hình ảnh thi ca như gấm như thêu của
cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một
quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang minh hoạ cho triết
học. Mà đó chính là cảm niệm triết học của một hồn thơ.
Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố cục của Vội vàng. Thi
phẩm khá dài, nhưng tự nó đã hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa
hai phần đặt vào ba chữ "Ta muốn ôm". Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao
cần sống vội vàng. Phần dưới là bộc lộ trực tiếp cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách
vui vẻ: trên là lý thuyết, dưới là thực hành! Điều dễ thấy là thi sĩ có dụng ý chọn cách

xưng hô cho từng phần. Trên, xưng "tôi" - lập thuyết, đối thoại với đồng loại. Dưới, xưng
"ta" - đối diện với sự sống. Trình tự luận lí có xu hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ
bồng bột, giọng thơ ào ạt, sôi nổi như thác cuốn đã xoá mọi cách ngăn, khiến thi phẩm
vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và truyền cảm.
Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. ấy là ước
muốn quay ngược qui luật tự nhiên - một ước muốn không thể:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Muốn "tắt nắng", muốn "buộc gió" thật là những ham muốn kì dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng
làm sao cưỡng được qui luật, làm sao có thể vĩnh viễn hoá được những thứ vốn ngắn ngủi
mong manh ấy? Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột
vô bờ với cái thế giới thắm sắc đượm hương này.
Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên
đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh
vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy
xuân tình. Cái thiên đường đầy sắc hương đó hiện diện trong Vội vàng vừa như một
mảnh vườn tình ái, vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn
quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy khiêu gợi. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một
cách riêng. ấy là hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực
chất là tình tự với thiên nhiên.
Hãy xem cách diễn tả vồ vập về một thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực
xuân tình:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Có lẽ trước Xuân Diệu, trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác "Tháng giêng ngon như
một cặp môi gần". Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy
tháng giêng mơn mởn tơ non đầy một sức sống thanh tân kia sao mà quyến rũ - tháng
giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một một người tình rạo rực,
trinh nguyên.
Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết bằng cái lôgic luận lí ngầm của nó. Thi sĩ
muốn "tắt nắng", muốn buộc gió chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho một trần thế như
thế này đây. Hương sắc là cái sinh khí của nó, là vẻ đẹp, là cái nhan sắc của nó. Tất cả chỉ
rực rỡ trong độ xuân thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ ba của
phần luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của xuân thì trong sự
sống và cái xuân thì của con người. Phải, cái thế giới này lộng lẫy nhất, "ngon" nhất là ở
độ xuân; còn con người cũng chỉ hưởng thụ được cái "ngon" kia khi còn trẻ thôi. Trong
khi đó, cả hai đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu
tiên, thơ ca Việt Nam có được cái quan niệm này:
Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Con người thời trung đại lấy sinh mệnh vũ trụ để đo đếm thời gian. Nên hình như họ yên
trí với quan niệm thời - gian - tuần - hoàn, với cái chu kì bốn mùa, cũng như cái chu kì ba
vạn sáu nghìn ngày của kiếp người. Hết một vòng, thời gian lại quay về điểm xuất phát
ban đầu. Con người hiện đại lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian. Nên họ sống
với quan niệm thời - gian - tuyến - tính. Thời gian như một dòng chảy vô thuỷ vô chung
mà mỗi một khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt
phủ định:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !
Không chỉ dùng sinh mệnh cá thể, Xuân Diệu còn đo đếm thời gian bằng cái quãng ngắn
ngủi nhất của sinh mệnh cá thể: tuổi trẻ. Tuổi trẻ đã một đi không trở lại thì làm chi có sự
tuần hoàn.
Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người quá

ư ngắn ngủi hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một
nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Không chỉ quan niệm, mà ngay cả cảm giác cũng hết sức mới lạ. Xuân Diệu đã đem đến
một cảm nhận đầy tính "lạ hoá" về thời gian và không gian:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép "tương giao" (Correspondance) của lối
thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận
và mô tả thế giới, trước hết là thời gian và không gian. Có những câu thơ mà cảm giác
được liên tục chuyển qua các kênh khác nhau. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác:
"Mùi tháng năm" - thời gian của Xuân Diệu được làm bằng hương - chẳng thế mà thi sĩ
cứ muốn "buộc gió lại" ư - hương bay đi là thời gian trôi mất, là phai lạt phôi pha! Một
chữ "rớm" cho thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt
lệ. Chữ "vị" liền đó, lại cho thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một thứ
vị hoàn toàn phi vật chất: "vị chia phôi"! Thì ra chữ "rớm" và chữ "vị" đều từ một hình
ảnh ẩn hiện trong cả câu thơ là giọt lệ chia phôi đó. Giọt lệ thường long lanh trên khoé
mắt người trong giờ phút chia phôi. Giọt lệ thành hiện thân, biểu tượng của chia phôi. Vì
sao thời gian lại mang hương vị - hình thể của chia phôi? ấy là những cảm giác chân thực
hay chỉ là trò diễn của ngôn ngữ theo kịch bản của phép "tương giao"? Thực ra cái tinh tế
của Xuân Diệu là ở chỗ này đây. Thi sĩ cảm thấy thật hiển hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa
bỏ hiện tại để trở thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi thời khắc
đều đang có một cuộc ra đi như thế, thời gian đang chia tay với con người, chia tay với
không gian và với cả chính thời gian. Tựa như một phần đời của mỗi cá thể đang vĩnh
viễn ra đi. Từng phần đời đang chia lìa với cá thể. Cho nên thi sĩ nghe thấy một lời than
luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than triền miên bất tận: "than thầm tiễn biệt".
Không gian đang tiễn biệt thời gian! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên
nhiên diệu kì này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi!
Và, một điều rất đáng nói đã bộc lộ đây đó trong thi phẩm này là: do dùng tuổi trẻ để đo

đếm thời gian, nên ở Xuân Diệu đã xuất hiện một ý niệm thời gian khá đặc biệt, đó là thì
sắc. Thời gian được nhìn ở phía nhan sắc, gắn với nhan sắc của sự vật. Vì thế mà với hồn
thơ này, thời gian, về thực chất không có ba thì phân lập rành rẽ với quá khứ - hiện tại -
tương lai, mà chỉ có hai thì luôn tranh chấp và chuyển hoá thôi đó là thời tươi và thời
phai. Nó không phải là hai mùa. Không phải Xuân Diệu lược qui bốn mùa vào hai mùa.
Mà là hai thì của mỗi một tạo vật thiên nhiên. Thời tươi: vạn vật thắm sắc, thời phai: vạn
vật phôi pha, phai lạt. Vật nào trong trần thế này cũng trải qua hai thì ấy. Tất cả những ý
niệm thời gian khác như năm tháng, mùa vụ, phút giây dường như đều tan trong cái ý
niệm thì sắc tổng quát đó. Mà ta thấy ở đây, nó hiện diện trong sự đối lập của "độ phai
tàn" (thời phai) và "thời tươi":
- Chim rộn ràng chợt dứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa.
- Cho no nê thanh sắc của thời tươi.
Có thể nói ý niệm thì sắc này đã chi phối toàn bộ nhỡn quan Xuân Diệu đối với việc cảm
nhận vẻ đẹp của thế giới trong sự trôi chảy vô thuỷ vô chung của nó.
Thế đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, không thể cầm giữ được thời gian, thì
chỉ có một cách thực tế nhất, khả thi nhất là chạy đua với thời gian, là tranh thủ sống:
Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao gì nữa
Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm
Đến đây, phần luận giải cuả tuyên ngôn Vội vàng đã đủ đầy luận lí!
Phần cuối của bài thơ là lúc tuyên ngôn được hiện ra thành hành động, ấy là Vội vàng
trong hình thái sống của cái tôi cá nhân cá thể này. Bài thơ được kết thúc bằng những
cảm xúc mãnh liệt, bằng những ham muốn mỗi lúc mỗi cuồng nhiệt, vồ vập. Đó là cả một
cuộc tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ có thể diễn tả như thế, Xuân Diệu
mới phô diễn được cái lòng ham sống, khát sống trào cuốn của mình:
Ta muốn ôm:
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi, bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy
đủ nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập
của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan
chéo nhau, giao thoa, song song, thành những đợt sóng vỗ mãi vào vào tâm hồn người
đọc. Câu thơ Ta muốn ôm chỉ có ba chữ, lại được đặt ở vị trí đặc biệt: chính giữa hàng
thơ, là hoàn toàn có dụng ý. Xuân Diệu muốn tạo ra hình ảnh một cái tôi đầy ham hố,
đang đứng giữa trần gian, dang rộng vòng tay, nới rộng tầm tay để ôm cho hết, cho khắp,
gom cho nhiều nữa, nhiều nữa, mọi cảnh sắc mơn mởn trinh nguyên của trần thế này vào
lòng ham muốn vô biên của nó. Cái điệp ngữ:"Ta muốn" được lặp đi lặp lại với mật độ
thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một động thái yêu
đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm - riết - say - thâu - cắn. Có thể nói,
câu thơ "Và non nước, và cây, và cỏ rạng" là không thể có đối với thi pháp trung đại vốn
coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối với người xưa, đó sẽ là câu thơ vụng. Tại sao lại
thừa thãi liên từ "và" đến thế? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu.
Những chữ "và" hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí
của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một
cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc ham hố, tham lam đang trào lên mãnh liệt trong
lồng ngực yêu đời của thi s !
Câu thơ:
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ "cho" điệp lại với nhịp độ tăng tiến,
nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thoả thuê: chếnh choáng - đã đầy - no nê. Sóng cứ
càng lúc càng tràn dâng, cao hơn, vỗ mạnh hơn, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh:
- Hỡi Xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhuỵ đã no nê đang lảo đảo bay đi. Lại thấy thi

sĩ như một tình lang trong một cuộc tình chếnh choáng men say.
Sống là hạnh phúc. Muốn đạt tới hạnh phúc, phải sống vội vàng. Thế là, Vội vàng chính
là cách duy nhất để đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc và dường như cũng là cái giá
trả cho hạnh phúc vậy! Xuân Diệu quả đã mang trong mình nguồn sống trẻ. Xuân Diệu là
thi sĩ của nguồn sống trẻ. Ta hiểu vì sao, khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc
về tuổi trẻ!
Trả Lời Với Trích Dẫn
12-21-2009 01:07 AM #3
songngu
Xem Hồ Sơ
View Forum Posts
Nhắn Tin Riêng
Registered Users
Join Date
Dec 2009
Bài gởi
58
Thanks
0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Thêm một cách cảm :
Mỗi lần những dòng thơ trên, nhạc điệu “Vội vàng” cứ ngân vang dào dạt mãi trong lòng
ta, tình yêu đời, yêu sống như tát mãi không bao giờ cạn… Cảm thức về thời gian, về
mùa xuân, về tuổi trẻ… như những lớp sóng vỗ vào tâm hồn ta. “vội vàng” là bài thơ độc
đáo nhất, “mới nhất” của thi sĩ Xuân Diệu in trong tập “Thơ Thơ” (1933-1938) – đóa hoa
đầu mùa đầy hương sắc làm rạng danh một tài thơ thế kỷ.
Bài thơ “Vội vàng” nói lên nhịp điệu sống, khát vọng sống của tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng
yêu. Một đời người chỉ có một lần tuổi trẻ. Phải biết trân trọng, quý trọng và sống hết
mình với tuổi trẻ, với mùa xuân và với thời gian.
Trong “Tiểu dẫn” về bài thơ “Vội vàng” này (Văn 11), giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh viết:

“Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau
những tình cảm ấy, có cả một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền
thống”.
Thiên nhiên rất đẹp đầy hương sắc của hoa trên “đồng nội xanh rì”, của lá “cành tơ phơ
phất”. “Tuần tháng mật” của ong bướm. “Khúc tình si” của yến anh. “Và này đây ánh
sáng chớp hàng mi”. Chữ “này đây” được 5 lần nhắc lại diễn tả sự sống ngồn ngộn phơi
bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu. Vì lẽ đó nên phải vội vàng “tắt nắng đi”
và “buộc gió lại”. Trong cái phi lý có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn.
Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Bình minh là khoảnh khắc tươi đẹp nhất của một ngày, đó
là lúc “thần vui hằng gõ cửa”. Tháng giêng là tháng khởi đầu của mùa xuân, “ngon như
một cặp môi gần”. Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa
lạ vừa táo bạo. Chiếc môi ấy chắc là của giai nhân, của trinh nữ. Đấy là câu thơ hay nhất,
mới nhất cho thấy sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ
Xuân Diệu.
Chắc là Xuân Diệu viết bài thơ này trước năm 1938, lúc ông trên dưới 20 tuổi, - cái tuổi
thanh niên bừng sáng, nhưng thi sĩ đã “vội vàng một nửa” cách nói rất thơ - chẳng cần
đến tuổi trung niên (nắng hạ) mới luyến tiếc tuổi hoa niên. Dấu chấm giữa dòng thơ, thơ
cổ khong hề có. Như một tuyên ngôn “vội vàng”:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân’
Vội vàng vì thiên nhiên quá đẹp, vì cuộc sống quá yêu, vì tuổi trẻ qúa thơ mộng. Đang
tuổi hoa niên mà đã “vội vàng” … Cảm thức của thi sĩ về thời gian, về mùa xuân, về tuổi
trẻ rất hồn nhiên, mới mẻ.
Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Thời gian là vàng ngọc. Bóng ngả lưng ta.
Thời gian vun vút thoi đưa, như bóng câu (tuấn mã0 vút qua cửa sổ, như nước chảy qua
cầu. Thời gian một đi không trở lại, Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng: tương
phản đối lập để chỉ ra cái “lượng trời” cho một đời người chỉ có một thời xuân mà tuổi trẻ
một đi qua không bao giờ trở lại…
“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại…”
Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới
– qua, non – già, hết - mất, rộng - chật, tuần hoàn - bất phục hoàn, vô hạn - hữu hạn - để
khẳng định một chân lý - triết lý: tuổi xuân một đi không trở lại, phải quý tuổi xuân.
Cách nhìn nhận của thi nhân về thời gian cũng rất tinh tế, độc đáo nhạy cảm. Trong hiện
tại đã bắt đầu có qúa khứ và đã hé lộ mầm tương lai, cái đáng có lại đang mất dần di…
Và mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn
“chia phôi”, hoặc “tiễn biệt”, phải “hờn” vì xa cách, phải “sợ” vì “độ phai tàn sắp sửa”.
Cảm xúc lãng mạn dào dạt trong cái vị đời. Nói cảnh vật thiên nhiên mà là để nói về con
người, nói về nhịp sống khẩn trương “vội vàng” của tạo vật. Với Xuân Diệu hầu như
cuộc sống nơi “vườn trầu” đều ít nhiều mang “bi kịch” về thời gian:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”
Cũng là “gió”, là “chim”… nhưng gió khẽ “thì thào” vì “hờn”, còn “chim” thì bỗng
ngừng hót, ngừng reo vì “sợ”! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch
lý giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian:
“Con gío xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”
Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối – lo lắng và chợt tỉnh “mùa chưa ngả chiều hôm”
nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả. Câu cảm
thán với cách ngắt nhịp biến hoá làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống
cuống tiếc rẻ, bâng khuâng
Trả Lời Với Trích Dẫn

12-21-2009 01:09 AM #4
songngu
Xem Hồ Sơ
View Forum Posts
Nhắn Tin Riêng
Registered Users
Join Date
Dec 2009
Bài gởi
58
Thanks
0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Đề thi tuyển sinh 2009 (?).
Câu III. a:
Thí sinh cần xác định rõ 2 đối tượng cần phân tích trong đoạn trích, đó là 1. hình ảnh
thiên nhiên và 2. cái tôi trữ tình, Có thể nhập hoặc tách riêng 2 đối tượng trong quá trình
phân tích. Sau đây là gợi ý cách làm theo cách tách riêng từng đối tượng:
- Hình ảnh thiên nhiên: Thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng là :
+ một thiên nhiên của mùa xuân trần thế: thiên nhiên này là một cõi thiên đường của màu
sắc, hương vị, âm thanh, bề bộn và phong phú, cho ta thỏa thích ngắm nhìn và hưởng thụ,
nhưng không phải là chốn bồng lai tiên cảnh mà là thiên nhiên trần thế, rất gần, ta chỉ với
tay là ôm choàng lấy được. Làm rõ điều ấy bằng cách phân tích các từ “này đây” ở các vị
trí khắp nơi trong các câu thơ
+ một thiên nhiên của mùa xuân tình yêu: bốn mùa thiên nhiên đều tươi đẹp, nhưng đẹp
nhất đối với tuổi trẻ, đó là thiên nhiên của mùa xuân trong con mắt kẻ đang yêu say đắm.
“Ong bướm” là của “tuần tháng mật”, hoa, lá đang độ “xanh rì”, “yến anh” đang say
trong “khúc tình si”,… - một mùa xuân “ngon như một cặp môi gần”.
- Cái tôi trữ tình:
+ Cảm nhận về cái đẹp: thiên nhiên mơn mởn đẹp đẽ ấy không phải do thi sĩ làm nên, mà

có từ bao đời nay, nhưng chỉ khi “nhìn cuộc đời bằng con mắt xanh non” thì con người
mới phát hiện ra vẻ đẹp huy hoàng ấy. Cặp mắt xanh non ấy là của thi sĩ Xuân Diệu,
người đã hóa thân thành cái tôi trữ tình trong bài thơ. Bài thơ mở ra với sự hiện diện của
một cái tôi trữ tình đang đứng giữa đất trời trong buổi thanh xuân của cuộc đời, trong
buổi thanh tân của thiên nhiên mùa thứ nhất trong năm. Nhân vật trữ tình ngơ ngác và
sung sướng phát hiện vẻ đẹp của thiên nhiên.
+ Cảm nhận về thời gian: cảm nhận về thời gian luôn là mối rung động xôn xao nhất của
Xuân Diệu, thể hiện rõ trong 4 câu đầu trong bài thơ Vội vàng. Nhân vật trữ tình xuất
hiện với một ý muốn ngông cuồng: muốn dừng thời gian lại: tắt nắng, buộc gió. Trước
cảnh đẹp say lòng và cảm thức về thời gian đang trôi, nhân vật trữ tình thể hiện sự băn
khoăn tiếc nuối đầy nhạy cảm: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa; Tôi không
chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Chú ý phân tích cú pháp bất thường của câu thơ và âm
hưởng hẫng hụt của ý thơ trong 2 câu cuối này.
- Hình ảnh thiên nhiên và hình ảnh cái tôi trữ tình hòa quyện vào nhau, thấm đẫm chất
Xuân Diệu: nồng nàn đắm say, nặng lòng với trần thế.
Trả Lời Với Trích Dẫn
12-21-2009 01:12 AM #5
songngu
Xem Hồ Sơ
View Forum Posts
Nhắn Tin Riêng
Registered Users
Join Date
Dec 2009
Bài gởi
58
Thanks
0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Tìm hiểu về dấu chấm câu - tài năng của Xuân Diệu :

Sưu tầm.
1. Thơ ca thời trung đại dù viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm thì đều không có dấu câu.
Điều đó khiến cho người đọc phải căn cứ vào ý trong bài mà ngắt sao cho phù hợp. Lâu
nay khi đọc bản phiên âm hay bản dịch nghĩa, dịch thơ cổ, chúng ta thấy xuất hiện dấu
câu (chủ yếu là dấu chấm và dấu phẩy) thì đó là do người dịch thêm vào để tiện cho
người đọc khi theo dõi nội dung văn bản. Nghĩa là: dấu câu không phải là một vấn đề cần
đặt ra khi tìm hiểu thơ ca cổ. Tình hình sẽ thay đổi khi chúng ta tiếp cận thơ ca hiện đại.
Ở đây, xét đến cùng thì, về mặt nguyên tắc, những dấu chấm câu tưởng như đơn
giản nhưng nó lại cần được hiểu như những chỉnh thể nghệ thuật có nghĩa. Theo đó, nó
cần được xem xét một cách nghiêm túc: hoặc là nó có giá trị về mặt hình thức, hoặc là nó
có giá trị về mặt nội dung. Chúng tôi quan tâm tới những dấu câu trong thơ là với ý nghĩa
như thế. Tất nhiên không loại trừ nhiều trường hợp những dấu câu chỉ đơn giản có nghĩa
về mặt ngữ pháp. 2. Sau đây chúng tôi bàn về 2 trường hợp mà ở đó dấu chấm câu (.)
được sử dụng độc đáo.
2.1. Trường hợp thứ nhất:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa; (Vội vàng - Xuân Diệu )(1) Đây là một dòng
thơ hay và độc đáo. Nhiều người khi tiếp cậnđòng thơ này đã thường bỏ qua dấm chấm
câu ở giữa dòng thơ. Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu đã dùng đến một dấu chấm
để ngắt dòng thơ của mình thành 2 câu độc lập như vậy. Đọc kĩ dòng thơ và đặt chúng
trong chỉnh thể toàn bài thơ, chúng tôi nhận thấy dấu chấm có ý nghĩa tách hai nội dung
tư tưởng chủ đạo của toàn bài. Một thuộc về phía bên trên Tôi sung sướng (từ câu đầu
đến câu 11); phần còn lại là Tôi vội vàng (từ câu 13 đến hết bài). Mở đầu bài thơ, Xuân
Diệu đã vẽ ra một khung cảnh đẹp đẽ, dậy tình, như một thiên đường trên mặt đất. Đó là
nơi mà thi sĩ muốn hưởng thụ, muốn tận hưởng và kêu gọi mọi người cùng tận hưởng
hương sắc của thiên nhiên, thế giới, của tình yêu con người… Lời thơ nhanh mạnh,
gấp gáp, giọng thơ vội vàng, thúc giục. Đó thực sự là tâm trạng sung sướng của Xuân
Diệu vậy! Nhưng thế giới đẹp dường ấy cuối cùng cũng sẽ phôi pha. Vạn vật không đứng
yên và lại càng không đứng chờ tuổi trẻ chỉ có duy nhất một lần của con người. Thế thì,
nếu không nhanh chóng chạy đua với thời gian, để tận hưởng nó thì rồi nó cũng qua đi.
Quan trọng hơn: tuổi trẻ qua đi là tất cả như vô nghĩa. Từ câu 13 đến hết bài thơ, thi sĩ

dùng để biểu diễn nội dung tư tưởng này. Lời thơ vẫn nhanh mạnh và gấp gáp nhưng đã
trở nên ngậm ngùi và tiếc nuối, xót xa, pha chút bâng khuâng. Thay cho tâm trạng sung
sướng phía trên là tâm trạng vội vàng phía dưới. Vậy nên mới Tôi sung sướng. Nhưng
vội vàng một nửa. Dấu chấm như một khoảng lặng, dù rất ngắn ngủi để thi sĩ chiêm
nghiệm về cái lẽ nhân sinh. Nó như là sự khựng lại của cõi lòng thi nhân trong việc thể
hiện một niềm vui không trọn vẹn. Trật tự 2 câu trong dòng thơ không thể đảo ngược: Tôi
vội vàng. Nhưng sung sướng một nửa; (-) Dòng thơ hóa ngô nghê hết sức. Còn nếu dòng
thơ như thế này được chấp nhận thì tổ chức bài thơ phải thay đổi. Từ câu thứ 13 đến hết
bài chuyển lên phía trên; từ câu đầu đến câu thứ 11 chuyển thành phần kết thúc. Thử đọc:
… Hẳn là không thể được. Dấu chấm trong dòng thơ với việc sắp xếp trật tự ý thơ
như thi sĩ đã có ý nghĩa và hiệu quả nghệ thuật rất lớn. Chúng tôi cho đây là một trường
hợp sử dụng dấu chấm câu trong thơ độc đáo.
2.2. Trường hợp thứ hai:
Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng bác phải ra đi
(Người đi tìm hình của nước - Chế Lan Viên)(2) Đây là dòng thơ mở đầu bài thơ. Gồm 2
câu thơ được ngăn cách bằng một dấu chấm. Hai câu thơ biểu diễn hai nội dung ý nghĩa
khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Và đây cũng là dòng thơ khái quát nội
dung tư tưởng toàn bài. Toàn bộ phần sau sẽ là sự diễn dịch cho nội dung dòng thơ khái
quát này. Chúng ta biết, Chế Lan Viên trong bài thơ muốn tiếp cận hình tượng lãnh tụ
theo chiều dài thời gian từ khi Bác ra đi tìm đường cứu nước năm 1911 đến năm 1941,
trọn vẹn 30 năm không ngừng nghỉ. Việc Bác ra đi ngoài xuất phát điểm là lòng yêu nước
và tự hào dân tộc, lòng căm thù đế quốc thực dân, Chế Lan Viên muốn nhấn mạnh đến
một ý rất độc đáo này: Bác cảm nhận được Việt Nam là một đất nước đẹp nhưng vẻ đẹp
ấy sẽ vô nghĩa nếu không có độc lập tự do, không có tên trên bản đồ thế giới. Cuộc hành
trình của Bác chính là cuộc hành trình đi tìm tên để điền lên bản đồ cho một đất nước.
Việc làm ấy lớn lao vô cùng. Và đây là cách tiếp cận hình tượng lãnh tụ rất riêng của Chế
Lan Viên. Bài thơ sau đó sẽ được triển khai theo những hình ảnh tương phản đối lập: một
bên là những hình ảnh đẹp vô cùng của đất nước (ít hơn) và bên kia là những hình ảnh
của nhân dân lầm than (nhiều hơn) cùng với hình tượng Bác trong những ngày tháng lênh
đênh đi tìm tên, tìm hình cho một dân tộc với rất nhiều những khoảnh khắc tâm trạng của

Bác, trong quan hệ với đất nước, dân tộc. Với ý nghĩa như vậy cho nên Đất nước đẹp vô
cùng - lòng tự hào vô bờ bến về đất nước, dấu chấm câu như sự khựng lại của một cảm
xúc nức nở, nghẹn ngào trong nỗi đớn đau tột bậc mà phải kìm nén sâu lắm, Nhưng Bác
phải ra đi để tìm hình của nước, tìm tên cho dân tộc Việt Nam. Hai ý này nâng đỡ cho
nhau, ý thứ nhất như tạo thêm tiền đề cho lòng quyết tâm ra đi, thúc giục, khích lệÃ
¢â‚¬Â¦ Để đến ngày trở về thì:
Giặc nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát
Đất nước đẹp vô cùng ấy là một đất nước đẹp trong hoà bình, độc lập tự do và hạnh phúc
của nhân dân. Bác ra đi tìm lại cái đẹp trọn vẹn cho đất nước, cho dân tộc. Tổ chức dòng
thơ đã không thể đảo ngược: Bác phải ra đi. Nhưng đất nước đẹp vô cùng (-) Nếu dòng
thơ viết như thế thì sẽ không thể có cuộc ra đi kia. Từ sự cống hiến và ý chí quyết tâm đã
là một sự nhụt chí, nếu không muốn nói là hưởng thụ. Lịch sử đã vĩnh viễn không có điều
đó. Và dòng thơ đã buộc phải chọn một tổ chức như thế. Mãi mãi là như thế. Không thể
khác. Đó là sự độc đáo của dấu chấm câu và của một dụng công nghệ thuật của Chế Lan
Viên để hình tượng lãnh tụ sẽ tiếp tục được triển khai cho đến hết bài thơ. Trong Người
đi tìm hình của nước còn có thêm 4 dòng thơ được tổ chức theo hình thức như dòng thơ
mở đầu:
- Luận cương đến Bác Hồ. Và người đã khóc,
- Giặc nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát
- Lênin mất rồi. Nhưng Bác chẳng dừng chân.
- Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi
3. Qua việc phân tích 2 trường hợp sử dụng dấu chấm (.) trong các dòng thơ, chúng tôi
muốn đi đến một kết luận là: bỏ qua những trường hợp dấu chấm câu chỉ đơn thuần là kết
thúc một ý, trong chỉnh thể bài thơ, một yếu tố dù nhỏ nhất (như dấu chấm chẳng hạn)
đều có tiềm năng tạo nghĩa với tư cách là một yếu tố bộ phận mà, có thể là người sáng tạo
ra nó không ý thức hết nhưng người đọc thì không thể bỏ qua để hoàn chỉnh sinh mệnh
nghệ thuật cho bài thơ với tư cách là đồng sáng tạo. Cố nhiên, đó là những chi tiết nghệ
thuật rất nhỏ, cầu kì quá sẽ mất thời gian, vụn vặt. Xin trao đổi cùng quý vị!
Hà Nội, 18/02/2008
_____________________________________

(1) Trích giảng văn học 11, tập 1, phần Văn học Việt Nam, chỉnh lí hợp nhất năm 2000,
tái bản lần thứ 5, Nxb.Giáo dục, Hà Nội, 2005, tr.132. (2) Trích giảng văn học 12, tập 1,
phần Văn học Việt Nam, chỉnh lí hợp nhất năm 2000, tái bản lần thứ 5, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội, 2005, tr.259.
thay đổi nội dung bởi: songngu, 12-21-2009 lúc 01:16 AM
Trả Lời Với Trích Dẫn
12-21-2009 01:16 AM #6
songngu
Xem Hồ Sơ
View Forum Posts
Nhắn Tin Riêng
Registered Users
Join Date
Dec 2009
Bài gởi
58
Thanks
0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Nhà thơ Thế Lữ, trong lời Tựa cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, đã có nhận xét khá tinh
tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây
dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” . Đã hơn hai mươi năm Xuân Diệu giã từ
chúng ta vào cõi hư vô, nhưng “tấm lòng trần gian” của ông dường như vẫn còn ở lại. Cứ
mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ của các thế hệ học sinh lại rung lên những cảm
xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn
với niềm khát khao giao cảm với đất trời, con người tràn mê đắm của thi nhân, trong mùa
xuân diệu kì!
Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca
đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam 1932 –
1945, mùa xuân còn gắn với cái tôi cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các nhà thơ mới. Có

thể kể đến một Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”, một Nguyễn Bính
với “mùaxuân là cả một mùa xanh…”. Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem
vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm
tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi hai mươi căng nhựa sống.
Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái của Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ hồi
viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã thấy “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh
trời, sống vội vàng, sống cuốn quýt”. Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái
tên Vội vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự họa của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ
rất hiểu mình.
Thực ra, cái điệu sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về
thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là một kết cục không tránh
khỏi mai hậu. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao diệu kỳ. Mà sống là phải tận hiến và tận
hưởng! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên
phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã,
gấp gáp. Bài thơ này được viết ra từ cảm niệm triết học ấy.
Thông thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ
nghiêng về cảm xúc rất “ngại” đi cùng chính luận. Ấy thế nhưng nhu cầu phô bày tư
tưởng, nhu cầu lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân Diệu hiển
nhiên là loại thơ xúc cảm. Nhưng đọc kỹ sẽ thấy rằng thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính
luận. Nếu như cảm xúc làm nên cái nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mây
trôi, nước chảy trên bề mặt của văn bản thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại ẩn mình,
lặn xuống bề sâu, làm nên cái tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự
nhiên, nhuần nhị. Vội vàng cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột cuốn
theo bao hình ảnh thi ca như gấm như thêu của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một
bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có
lẽ không phải thơ đang minh họa cho triết học. Mà đó chính là minh triết của một hồn
thơ.
Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố cục của Vội vàng. Thi
phẩm khá dài nhưng tự nó hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa hai
phần đặt vào ba chữ “Ta muốn ôm”. Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao cần

sống vội vàng. Phần dưới là bộc lộ cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách vui vẻ: trên
là lý thuyết, dưới là thực hành! Điều rất dễ thấy là thi sĩ chọn cách xưng hô cho từng
phần. Ở trên, xưng “tôi”, lập thuyết đối thoại với đồng loại. Ở dưới, xưng “ta”, đối diện
với sự sống. Phần luận lí có xu hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ
dào dạt, sôi nổi đã xóa mọi cách ngăn, khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống
động, tươi tắn và truyền cảm.
Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. Ấy là cái ước
muốn quay ngược quy luật tự nhiên – một ước muốn không thể:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió”, thật là những ham muốn kỳ dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng
làm sao cưỡng được quy luật, làm sao có thể vĩnh viễn hóa được những thứ vốn ngắn
ngủi mong manh ấy? Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu
bồng bột vô bờ đối với cái thế giới thắm sắc đượm hương này.
Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên
đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh
vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy
xuân tình. Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong Vội vàng vừa như một mảnh vườn
tình ái, vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ,
lại vừa như một người tình đầy đắm say. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng.
Ấy là hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình
tự với thiên nhiên.
Hãy xem cách diễn tả vồ vập về thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực xuân
tình:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si,

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Có lẽ trước Xuân Diệu trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác “Tháng giêng ngon như một
cặp môi gần”. Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy
tháng giêng mơn mởn non tơ đầy một sức sống thanh tân kia mà sao quyến rũ – tháng
giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một người tình rạo rực,
đắm say.
Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết bằng cái logic luận lí ngầm của nó. Thi sĩ
muốn “tắt nắng”, “buộc gió” chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho trần thế này đây.
Hương sắc là cái sinh khí của nó, là cái vẻ đẹp, cái nhan sắc của nó. Tất cả chỉ rực rỡ
trong độ xuân thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ ba của phần
luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của xuân thì đối với sự sống
và cái xuân thì của con người. Phải, cái thế giới này lộng lẫy nhất, “ngon” nhất là ở độ
xuân; còn con người cũng chỉ hưởng thụ được cái “ngon” kia khi còn trẻ thôi. Mà cả hai
đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu tiên, thơ ca Việt
Nam có được cái quan niệm này:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn no nghĩa là xuân sẽ già.
Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn với cái chu
kỳ bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu ngàn ngày của kiếp người. Con người hiện
đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một
khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !
Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại thì làm chi có sự
tuần hoàn !
Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người thật
là ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một
nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Và đem đến một cảm nhận đầy tính lạ hóa về thời gian và không gian:
Mùi tháng năm đền rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép “tương giao” của lối thơ tượng trưng,
Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới.
Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác: “Mùi tháng năm” – thời gian của Xuân Diệu
được làm bằng hương – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn buộc gió lại ư? Một chữ “rớm” cho
thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ “vị”
liền đó, lại cho thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một vị hoàn toàn phi
vật chất: “vị chia phôi” ! Thì ra chữ “rớm” và chữ “vị” này đều từ một hình ảnh ẩn hiện là
giọt lệ chia phôi đó. Vì sao thời gian lại mang cái hương vị - hình thể của chia phôi? Ấy
là những cảm giác chân thực hay chỉ là trò diễn của ngôn ngữ theo kịch bản của phép
“tương giao”? Cái tinh tế của Xuân Diệu chính là ở đấy ! Thi sĩ cảm thấy thật hiển hiện
mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh
viễn. Trên mỗi thời khắc đều đang diễn ra một cuộc chia tay của thời gian với con người,
với không gian và với cả chính thời gian. Cho nên thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm
vang khắp núi sông này, một lời than vĩnh viễn: than thầm tiễn biệt. Không gian đang tiễn
biệt thời gian ! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kỳ này
bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi !
Thế đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, cũng không thể cầm giữ được thời gian,
thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống:
Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm
Đến đây phần luận giải của tuyên ngôn vội vàng đã đủ đầy luận lý !
Bài thơ được kết thúc bằng những cảm xúc mãnh liệt, bằng những tham muốn mỗi lúc
một cuồng nhiệt , vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống.
Chỉ có thể diễn tả như thế, Xuân Diệu mới phô diễn được cái lòng ham sống, khát sống
sung mãn của mình:

Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy
đủ nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập
của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làm sóng ngôn từ đan
chéo nhau, giao thoa và song song vỗ vào tâm hồn người đọc. Cái điệp ngữ “ta muốn”
được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi
liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm – riết –
say – thâu – cắn. Có thể nói câu thơ “Và non nước, và cây, và cỏ rạng” là không thể có
đối với thư pháp trung đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối với thơ xưa, đó sẽ
là câu thơ vụng. Tại sao lại thừa thãi liên từ “và” đến thế ? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của
nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những chữ “và” hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng
cái giọng nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân
Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc tham lam đang trào lên
mãnh liệt trong lòng ngực yêu đời của thi sĩ !
Câu thơ:
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ “cho” điệp lại với mức độ tăng tiến
nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thỏa thuê: chuếnh choáng – đã đầy – no nê. Sóng cứ
càng lúc càng dâng cao, càng vỗ mạnh, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhụy đã no nê đang lảo đảo bay đi. Lại thấy thi

sĩ như một tình lang trong cuộc tình chuếnh choáng men say.
Có thể nói Xuân Diệu qua bài thơ này không chỉ "sống" hay "ham sống" mà ông "say
sống". Sống mãnh liệt, hối hả kẻo nữa lại tiếc nuối - Đó là một nhân sinh quan lành
mạnh. Nó khác với sự nguội lạnh, hờ hững, lạt lẽo. Bài thơ là nhịp đập gấp gáp trước
"thanh sắc trần gian" một ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán sống.
Sống là hạnh phúc. Muốn đạt tới hạnh phúc phải sống vội vàng. Thế là, vội vàng là cách
đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc, và hình như cũng là cái giá phải trả cho hạnh
phúc vậy ! Ta hiểu vì sao khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ !
Sưu tầm.
Trả Lời Với Trích Dẫn
12-21-2009 01:18 AM #7
songngu
Xem Hồ Sơ
View Forum Posts
Nhắn Tin Riêng
Registered Users
Join Date
Dec 2009
Bài gởi
58
Thanks
0
Thanked 0 Times in 0 Posts
Hiểu thêm về Xuân Diệu :
Nguồn: Tạp chí Hồn Việt
Về hai câu thơ của Xuân Diệu
Trần Đăng Khoa
Xuân Diệu là thày dạy nghề của tôi, là một trong những nhà thơ tôi ngưỡng mộ và kính
trọng sâu sắc. Tôi đặc biệt bái phục hai câu thơ của ông:
Trái đất ba phần tư nước mắt

Đi như giọt lệ giữa không trung
Cứ như cách hiểu của tôi thì đây là câu thơ rất giản dị và kỳ vĩ, có tầm khái quát rất cao,
lại rất điêu luyện trong kỹ nghệ đưa thực tế đời sống vào thơ, một công việc bếp núc nhà
nghề không mấy dễ dàng mà ngay cả Xuân Diệu cũng không phải lúc nào ông cũng làm
được. Xuân Diệu từng viết về việc khai thác than, phải lọc bao nhiêu tấn đất đá mới chọn
ra được một tấn than như thế nào. Rồi chuyện đóng hộp dưa chuột. Ông kể rất tỉ mỉ là
phải chọn loại dưa như thế nào, hình dáng kích cỡ ra sao, dưa không được vẹo vọ hay sứt
sẹo, rồi rửa dưa thế nào, không được để lẫn một hạt cát khi đóng hộp. Đọc chỉ thấy quý
tấm lòng của ông đối với công việc sản xuất, còn bài thơ thì đã trệch ra khỏi văn chương
và trượt xuống việc bốc đất bốc đá hay kỹ thuật muối dưa chuột mất rồi, không còn là thơ
nữa. Xuân Diệu viết về việc mở đường ở Mã Pí Lèng cũng thế. Cái thực tế rất cụ thể, rất
chính xác như thế này cũng không phải là thơ:
Đá nhỏ bắt đầu rơi lộp bộp
Sau lôi đá lớn đổ ầm ầm
Chiêm ngưỡng Xuân Diệu một cách khách quan và sòng phẳng như thế để chia sẻ nỗi vất
vả cực nhọc trong công việc sáng tạo thi ca với ông, càng thấy quý hơn, trân trọng hơn
hai câu thơ tuyệt vời ở mọi phương diện của ông: "Trái đất ba phần tư nước mắt - Đi như
giọt lệ giữa không trung". Tôi đọc đã nhiều, lục lọi cũng rất nhiều trong kho tàng thi ca
nhân loại, nhưng cho đến nay, tôi chưa thấy câu thơ nào kỳ vĩ hơn thế, tài nghệ đến như
thế trong lĩnh vực xây dựng hình tượng thơ và đặc biệt là kỹ nghệ đưa thực tế đời sống
vào thơ.
Trong nền thi ca nhân loại, nếu xét về mặt tổng thể, nhà thơ Xuân Diệu của chúng ta chỉ
ở một vị trí khiêm nhường, nếu đặt ông bên cạnh Lý Bạch, Đỗ Phủ, R. Tagor, Nguyễn
Du, A. Puskin, Uýt Man vv Nhưng nếu mỗi thi sĩ chỉ được chọn ra hai câu thơ và chỉ
hai câu thơ thôi, thì tôi ngờ rằng, có lẽ tất cả các bậc thiên tài kia đều phải ngả mũ trước
Xuân Diệu. Hồn vía của hai câu thơ rất tuyệt vời ấy nằm trong một chữ. Đó là chữ "Đi".
Còn nếu cứ tách bạch ra thì câu thơ "Trái đất ba phần tư nước mắt" chỉ là chuyện thực tế
đời sống được nâng cao. Vì ai cũng biết, trái đất của chúng ta ba phần tư là biển. Nước
biển lại mặn, dễ gợi đến nước mắt. Nhưng từ đấy, Xuân Diệu nhìn thấy Trái đất "đi" như
một giọt lệ thì hay thật. Nó hay chính ở cái chữ "đi" này. "Đi" là ở thế chủ động, và phải

"đi" thì trái đất mới thành một sinh linh, mới ra một thân phận. Vậy mà có nhà phê bình
khi tranh luận với tôi về câu thơ này, lại đề nghị đổi chữ “Đi” thành chữ “Trôi”. “Trôi”
thì thành nước thật mất rồi, trái đất hóa vô cảm như dòng nước vô tri, câu thơ dễ dãi và
lười nhác. Vả lại, nếu cứ phân tích theo lối bắt bẻ, chẻ hoe ra như cái ông phê bình ấy thì
giọt lệ cũng không thể trôi được. Nó có thể "rơi" hoặc "bay" trong không trung, chứ làm
sao có thể "trôi"? Trôi phải có dòng. Một giọt lệ làm sao có thể trôi được như một dòng
nước và ở trong nước. Thật buồn cười. Chữa thế là ngớ ngẩn và làm hỏng mất cả câu thơ.
Trong một bài viết của mình, khi khẳng định câu thơ này bay ra ngoài quỹ đạo quen
thuộc của thơ Xuân Diệu, là trong lòng tôi có chút băn khoăn. Thực tình trong thâm tâm,
tôi ngờ câu thơ này không phải của Xuân Diệu vì nó nhuốm màu Huy Cận. Cái hay của
thơ Xuân Diệu thường hay theo kiểu khác. Xuân Diệu có hai chặng đường thơ rất rõ rệt
mà bất cứ người đọc tối thiểu nào cũng có thể nhận ra. Trước cách mạng là rạo rực yêu
đương và sống cuống quýt, vội vàng. Thơ không phải là hiện thực trần trụi:

×