Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Phụ nữ cảnh giác với bệnh nhiễm khuẩn niệu pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.92 KB, 3 trang )

Phụ nữ cảnh giác với bệnh
nhiễm khuẩn niệu

Ở phụ nữ, nhiễm khuẩn niệu rất phổ biến và dễ tái phát. Vi khuẩn gây bệnh có thể
từ trực tràng, ở âm đạo, gây viêm nhiễm ngược dòng lên niệu đạo, bàng quang, bể
thận.
Vì sao phụ nữ dễ bị nhiễm khuẩn niệu?
Nhiễm khuẩn niệu là sự hiện diện của vi
sinh gây bệnh bên trong đường tiết niệu,
đồng thời gây ra các triệu chứng của bệnh
trên bệnh nhân. Nhiễm khuẩn niệu phức
tạp thường xảy ra ở bệnh nhân: sỏi, nang
thận nhiễm khuẩn, tổn thương tủy sống,
đang đặt các loại ống thông; bệnh tiểu
đường; có thai; suy giảm miễn dịch. Vi
khuẩn xâm nhập vào đường tiết niệu theo 3
đường: ngược dòng, theo đường máu và
lây lan từ ổ nhiễm khuẩn gần cơ quan niệu
sinh dục. Tuy nhiên không phải lúc nào vi
khuẩn cũng gây ra tình trạng nhiễm khuẩn
niệu, vì khả năng nhiễm khuẩn còn phụ thuộc vào các yếu tố: độ pH thấp và tính ưu
trương của nước tiểu; các chất nhầy của đường tiết niệu như protein, mức độ bám dính
khác nhau giữa các vi khuẩn gây bệnh. Phụ nữ dễ bị nhiễm khuẩn niệu hơn nam do
những khác biệt về giải phẫu và sinh lý của cơ quan niệu sinh dục, đó là: lỗ niệu đạo nữ
nằm rất gần âm đạo và trực tràng nên vi khuẩn dễ lây lan ngược dòng. Ở âm đạo luôn có
sẵn một hệ vi khuẩn kỵ khí và hiếu khí, nhưng trong điều kiện bình thường chúng không
gây nhiễm khuẩn niệu. Nhưng khi hệ vi sinh này bị thay thế bởi hệ vi sinh gây bệnh, có
nguồn gốc từ trực tràng, thì mới gây nhiễm khuẩn niệu. Niệu đạo nữ ngắn hơn niệu đạo
nam nên vi khuẩn dễ xâm nhập ngược dòng vào bàng quang. Giao hợp là một yếu tố dễ
Một nghiên cứu cho biết: ở Hoa Kỳ, mỗi
năm có khoảng 7 triệu lượt khám ngoại trú


và 1 triệu lượt nhập viện cấp cứu nhiễm
khuẩn niệu. Trên 50% phụ nữ có một lần
nhiễm khuẩn niệu trong đời. Trong độ tuổi
24, trên 30% phụ nữ bị ít nhất một đợt
nhiễm khuẩn niệu phải điều trị bằng kháng
sinh. Trong độ tuổi 16 -35, tỷ lệ nhiễm
khuẩn niệu ở phụ nữ cao hơn 40 lần so với
nam giới. Trong vòng 6 tháng sau lần
nhiễm khuẩn đầu tiên, một phần ba phụ nữ
bị tái phát.
gây nhiễm khuẩn niệu. Theo Hooton, ở phụ nữ luôn có tình trạng khuẩn niệu thoáng qua
ngay sau giao hợp. Thời kỳ mãn kinh, vì giảm estrogen, phụ nữ dễ bị nhiễm khuẩn niệu
do: niêm mạc âm đạo teo đi, môi trường âm đạo bớt tính acid và giảm số lượng vi khuẩn
lactobacilli. Nhiễm khuẩn niệu chủ yếu là do vi khuẩn đi từ niệu đạo vào bàng quang gây
viêm bàng quang. Do viêm niệu đạo bàng quang phù nề làm cho khúc nối bàng quang -
niệu quản không đóng kín được khi rặn tiểu, khi đó nước tiểu có vi khuẩn sẽ đi ngược
dòng lên bể thận gây nhiễm khuẩn. Hầu hết nhiễm khuẩn niệu do vi khuẩn gram âm,
trong đó E. coli chiếm 80%.

Cách phát hiện và điều trị nhiễm khuẩn niệu
Viêm niệu đạo và bàng quang cấp: Trên thực tế, để phân biệt viêm niệu đạo cấp và viêm
bàng quang cấp là rất khó vì các dấu hiệu gần giống nhau. Viêm niệu đạo cấp thì đi tiểu
đau, tiểu khó, chảy dịch niệu đạo, tác nhân gây bệnh thường là Chlamydia trachomatis,
Neisseria gonorhea, Herpes simplex. Viêm bàng quang cấp cũng đi tiểu đau, tiểu khó,
tiểu gấp, tiểu nhiều lần, tiểu máu và đau vùng trên xương mu. Đối với bệnh nhân nữ khỏe
mạnh, mới bị lần đầu viêm bàng quang cấp, có thể bị điều trị ngay bằng kháng sinh mà
không cần cấy nước tiểu. Dùng thuốc 7-10 ngày, hầu hết bệnh nhân đều khỏi. Tuy nhiên
khoảng 1/3 số bệnh nhân này sẽ tái phát, khi đó bắt buộc phải cấy nước tiểu để tìm vi
khuẩn và làm kháng sinh đồ. Nếu bệnh nhân tái phát trên 3 lần trong một năm thì cần tìm
các bất thường về phụ khoa. Chụp Xquang để phát hiện sỏi, niệu quản lạc chỗ, túi thừa

đài thận.
Viêm đài bể thận cấp: Biểu hiện thường gặp là sốt, buồn nôn, mệt mỏi, đau hông, đau
lưng. Trước khi điều trị phải cấy nước tiểu làm kháng sinh đồ. Nếu nhiễm khuẩn không
phức tạp có thể dùng kháng sinh 7 ngày. Trường hợp các triệu chứng không giảm, phải
cho bệnh nhân nhập viện dùng kháng sinh tĩnh mạch theo kháng sinh đồ từ 10 - 14 ngày.
Ngay khi có triệu chứng nhiễm khuẩn niệu ở phụ nữ, có thể điều trị bằng kháng sinh, tốt
nhất là dùng nhóm fluoroquinolone, vì khoảng 40% số vi khuẩn gây nhiễm khuẩn niệu
kháng với aminopenicillin và 20% kháng với trimethoprim-sulfamethoxazole. Những
phụ nữ bị tái phát trên 3 lần trong năm nên dùng kháng sinh dự phòng. Cách dùng kháng
sinh dự phòng: dùng liên tục mỗi ngày, liều thấp, thích hợp cho những phụ nữ có trên 3
đợt tái phát trong 1 năm; dùng kháng sinh khi có triệu chứng; dự phòng sau giao hợp.
Nhiễm khuẩn niệu ở phụ nữ có thai: Nhiều nghiên cứu thấy rằng có từ 4 - 6% thai phụ
có thai bị nhiễm khuẩn niệu, dễ dẫn đến viêm đài bể thận, sinh non, tử vong sơ sinh. Do
đó phải điều trị khỏi hẳn các nhiễm khuẩn niệu cho phụ nữ mang thai. Dùng tốt nhất là
các thuốc: penicillin, cephalosporin, nitrofurantoin. Không nên dùng fluoroquinolone vì
ảnh hưởng đến sự phát triển sụn của thai và TMP - SMX gây ức chế acid folic làm thiếu
máu cho thai.
Nhiễm khuẩn niệu ở trẻ em gái: Một số nghiên cứu cho thấy có khoảng 3% trẻ em gái
chưa đến tuổi dậy thì bị nhiễm khuẩn niệu, trong đó gần 30% bị tái phát trong vòng 3
năm. Nếu bị tái phát, tổn thương gây ra những vết sẹo ở chủ mô thận, đây là nguyên nhân
làm tăng nguy cơ bệnh thận ở tuổi trưởng thành. Vì vậy cần điều trị tích cực, dứt điểm
các trẻ gái có viêm ngược dòng bàng quang niệu quản, nên dùng kháng sinh dự phòng để
ngăn ngừa nhiễm khuẩn tiểu trên.
BS. Nguyễn Kiều Linh

×