Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.14 KB, 3 trang )
Giải pháp mới trong phòng ngừa và điều
trị bệnh loãng xương
Hiện nay, những tiến bộ ngoạn mục trong thời gian 20 năm qua đã cho ra đời hàng
loạt thuốc có hiệu quả quả giảm nguy cơ gãy xương, có thể chia làm 2 nhóm chính:
nhớm ức chế tế bào hủy xương Bisphosphonates (như Alendronate, risedronate,
zoledronate), Serm (raloxfene), calcitonin… và nhóm kích thích tế bào tạo xương
(như strontium ranelate và teriparatide). Tất cả đều đã được thử nghiệm và có hiệu
quả giảm nguy cơ gãy xương từ 30% đến 50%. Tuy nhiên, chỉ có zoledronate được
chứng minh là có hiệu quả giảm nguy cơ tử vong ở bệnh nhân sau khi bị gãy xương.
Gãy xương làm giảm tuổi thọ bệnh nhân
Loãng xương ảnh hưởng đến 1/3 phụ nữ và 1/5 nam giới trên 50 tuổi. Tuy diễn tiến âm
thầm nhưng loãng xương gây hậu quả hết sức nghiêm trọng. Không chỉ giảm độ chắc,
cứng của xương, giảm chiều cao, còng lưng…, loãng xương kéo theo nguy cơ bị gãy
xương. Đặc biệt, gãy cổ xương đùi sẽ làm tăng tỷ lệ mắc các bệnh khác, quan trọng hơn
là làm tăng đột biến tỷ lệ tử vong sau khi gãy xương.
Đã có khá nhiều nghiên cứu trong thời gian gần đây cho thấy những bệnh nhân bị gãy
xương cột sống có nguy cơ tử vong tăng gấp 2 lần so với tỉ lệ tử vong trung bình trong
dân số. Tuy nhiên, gãy cổ xương đùi mới là là hệ quả nghiêm trọng nhất và nguy hiểm
nhất của loãng xương. Nhiều nghiên cứu trên thế giới, kể cả ở Á châu, gần đây cho thấy
khoảng 20% nữ và 30% nam bị gãy cổ xương đùi chết trong vòng 1 năm sau khi xương
bị gãy.
Acid zoledronic 5mg hiệu quả giảm 70% nguy cơ gãy xương sống và giảm 28%
nguy cơ tử vong sau gãy xương
Để đáp ứng điều trị, đặc biệt thuận tiện cho người bệnh trong sử dụng, liệu pháp điều trị
loãng xương bằng cách truyền trực tiếp thuốc ức chế hủy xương zoledronic acid 5mg vào
tĩnh mạch đang được xem là một giải pháp đột phá trong điều trị loãng xương. Đây là
dung dịch tiêm truyền tĩnh mạch chứa 5mg acid zoledronic thuộc nhóm các
bisphosphonate chứa nitơ và tác động chủ yếu lên xương. Nó là chất ức chế sự tiêu
xương qua trung gian của hủy cốt bào, nói nôm na là thuốc ức hế sự hủy xương.