Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Viêm màng não mủ và lưu ý khi dùng thuốc potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.39 KB, 4 trang )

Viêm màng não mủ và lưu ý
khi dùng thuốc

Viêm màng não mủ là tình trạng nhiễm khuẩn do vi khuẩn sinh mủ của các khoang
màng nhện. Đây là một bệnh cảnh nội khoa có tính chất cấp cứu vì tiên lượng tốt
hay xấu sẽ tùy thuộc vào thời gian và phác đồ xử trí.
Sự xuất hiện ngày càng nhiều của các dòng phế cầu kháng penicilline đã làm thay đổi các
phác đồ điều trị cổ điển trong bệnh viêm màng não mủ. Ngoài ra, điều trị không phù hợp
còn có thể đưa đến những biến chứng thần kinh mạn tính hay gây tử vong cho bệnh nhân,
nhất là ở trẻ em. Vì vậy, bệnh viêm màng não cần được chẩn đoán sớm, điều trị tích cực
và đúng đắn để tránh các biến chứng và di chứng, hạ tỷ lệ tử vong. Tuy nhiên, chẩn đoán
rất dễ bị bỏ sót trong giai đoạn đầu vì triệu chứng lâm sàng của viêm màng não mủ ít đặc
hiệu và có khoảng 10% các trường hợp lại không tìm ra tác nhân gây bệnh, làm cho việc
chọn lựa kháng sinh ngay ban đầu gặp khó khăn.
Sự xâm nhập của vi khuẩn vào màng não
Vi khuẩn thường xâm nhập qua niêm mạch hầu họng, ngoài ra vi khuẩn còn vào màng
não bằng nhiều con đường khác nhau như: sau một tình trạng nhiễm trùng huyết có
nguồn gốc từ viêm nội tâm mạc, viêm phổi, viêm tắc tĩnh mạch, viêm xoang, viêm tai
giữa; ở bệnh nhân bị chấn thương sọ não hoặc có vết nứt cạnh xoang mũi, gãy xương
sàng; sau phẫu thuật thần kinh, nhất là các thủ thuật có đụng chạm đến dịch não tủy hoặc
các trường hợp viêm cốt tủy ở xương sọ và cột sống. Đối với trẻ sơ sinh, viêm màng não
xảy ra do nhiễm các loại vi khuẩn có mặt thường xuyên trong âm đạo, đường tiết niệu
hay trực tràng người mẹ như: E.coli, listeria mono-cytogenes
Dấu hiệu nhận biết
Bệnh có thể khởi đầu vài ngày trước bằng các dấu hiệu nhiễm khuẩn đường hô hấp trên
và khó xác định thời điểm thật sự bị viêm màng não. Bệnh cũng có thể khởi phát đột ngột
với một hội chứng nhiễm khuẩn cấp tính, ồ ạt của một nhiễm khuẩn huyết, diễn tiến
nhanh chóng đến viêm màng não trong vài giờ. Bệnh nhân thường số cao trên 39oC, có
kèm theo đau nhức, lạnh run, vã mồ hôi. Hội chứng não bao gồm: những cơn nhức đầu
dữ dội, kéo dài, không bớt với thuốc giảm đau, sợ ánh sáng; triệu chứng buồn nôn, ói
mửa, kiểu ói vọt; tình trạng táo bón và tăng kích thích da


Ở bệnh nhân lớn tuổi có biểu hiện lừ đừ, thay đổi tính tình, thường có triệu chứng lú lẫn,
lơ mơ và có thể không sốt
Ở trẻ nhỏ thì dấu hiệu kích thích màng não rất ít. Trẻ bỏ bú, kém linh hoạt hoặc bị kích
động, khó chịu, quấy khóc, khóc thét bất thường, vàng da, ói mửa, tiêu chảy
Ngoài ra còn có các biểu hiện khác như: những đốm xuất huyết rải rác toàn thân thường
gặp ở các trường hợp nhiễm não mô cầu; các dấu hiệu thần kinh định vị như liệt nửa
người, liệt tứ chi, liệt mặt hoặc mù mắt, lé, đau cơ, viêm khớp sưng

Vi khuẩn tấn công màng não.
Lưu ý khi dùng thuốc điều trị
Viêm màng não là một cấp cứu nội khoa, do đó cần phải điều trị sớm và tích cực. Nếu
điều trị chậm trễ sẽ dễ đưa đến các biến chứng và di chứng nặng nề, nhất là đối với trẻ
em. Trong điều trị, kháng sinh đóng vai trò chủ yếu.
- Nguyên tắc sử dụng kháng sinh: Có nhiều yếu tố ảnh hưởng trên sự lựa chọn kháng sinh
trong viêm màng não mủ. Trên hết là khả năng đi qua màng não của kháng sinh, tùy
thuộc vào tình trạng của hàng rào máu - màng não: sự xuyên thấu của thuốc khá tốt khi
màng não bị viêm, nhưng khi tình trạng viêm bớt thì sự xuyên thấu của kháng sinh lại
kém, do đó vẫn phải tiếp tục duy trì liều kháng sinh cao trong suốt quá trình điều trị. Các
loại kháng sinh qua màng não dễ là loại kháng sinh có độ hòa tan trong lipid cao, khối
lượng phân tử thấp, ít liên kết với protein và độ ion hóa thấp ở pH bình thường. Hoạt tính
diệt khuẩn của kháng sinh cũng rất quan trọng, ngoài ra nồng độ thuốc đưa vào cũng phải
rất cao mới đạt được hoạt tính diệt trùng trong dịch não tủy. Do đó, sử dụng kháng sinh
trong viêm màng não mủ cần áp dụng những nguyên tắc: sử dụng sớm, ngay khi có chẩn
đoán; lựa chọn loại thuốc thích hợp với độ nhạy cảm của vi khuẩn gây bệnh; nên dùng
loại kháng sinh diệt khuẩn; thuốc phải đạt đến nồng độ diệt khuẩn cần thiết trong dịch
não tủy (trong suốt thời gian điều trị nên dùng tiêm vào tĩnh mạch và không giảm liều dù
khi bệnh nhân có đáp ứng).
- Vấn đề lựa chọn kháng sinh khi bắt đầu điều trị dựa vào tỉ lệ những loại vi khuẩn
thường hay gây bệnh theo lứa tuổi hoặc các yếu tố thuận lợi (như viêm tai, viêm xoang,
chấn thương sọ não ) hoặc có thể dùng kháng sinh phổ rộng trong lúc chưa có kết quả

cấy dịch não tủy và kháng sinh đồ. Khi đã tìm ra loại vi khuẩn gây viêm màng não thì
điều trị đặc hiệu.
Viêm màng não do Hemophilus influenzae: Điều trị viêm màng não mủ do loại vi khuẩn
này đã có nhiều thay đổi từ khi có sự xuất hiện của dòng beta-lactamase. Người ta không
còn dùng chloramphenicol trong viêm màng não mủ do H.inflenzae vì hiệu quả không
bằng các loại kháng sinh dòng beta-lactamase và dễ có tai biến cho trẻ em. Nhóm
cephalosporin thế hệ 3 được khuyến cáo sử dụng hàng đầu.
Viêm màng não do Neisseria meningitidis: Kháng sinh hàng đầu được sử dụng là
penicillin G hay ampicillin. Có thể dùng chlorampenicol nếu dị ứng với penicillin. Thời
gian điều trị tương đối ngắn: 7-10 ngày hoặc ngừng thuốc khi bệnh nhân hết sốt 5 ngày.
Viêm màng não do Streptococcus pneumoniae: Trước đây, phế cầu nhạy cảm với
penicilline nhưng tới nay có rất nhiều báo cáo cho thấy khá nhiều trường hợp bị nhiễm
các dòng phế cầu kháng penicilline. Do đó kháng sinh hàng đầu được khuyến cáo sử
dụng cho phế cầu kháng thuốc là cephalosporin thế hệ 3.
Viêm màng não do Listeria monocytogenes: Bệnh cảnh này thường gặp ở trẻ sơ sinh,
người già và người lớn bị suy giảm miễn dịch. Ở trẻ sơ sinh, lựa chọn hàng đầu là
ampicillin phối hợp với gentamycin. Ở người lớn, lựa chọn hàng đầu cũng là ampicillin,
tuy nhiên nếu bị dị ứng thì thay thế bằng trimethoprimi sufametyhoxale.
Viêm màng não do trực khuẩn gram (-) hiếu khí: Thường do biến chứng của chấn thương
đầu hoặc những thủ thuật ngoại thần kinh. Ngày nay, người ta không còn sử dụng
aminoglycoside tiêm kênh tủy hay tiêm não thất nữa. Thuốc hàng đầu được lựa chọn là
nhóm cephalosporine thế hệ 3.
Viêm màng não do staphylococcus aureus: Bệnh gặp tương đối ít, thứ phát sau một
nhiễm khuẩn huyết nặng, do nhiễm khuẩn lan tỏa từ một ổ nhiễm khuẩn kế cận màng não
hoặc sau thủ thuật ngoại thần kinh. Oxacillin hay nafcillin được sử dụng hàng đầu. Dùng
vancomycin thay thế nếu bị dị ứng với nhóm penicillin hoặc bị nhiễm các dòng tụ cầu
kháng méthicillin.
TS. Ngọc Hà


×