Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.46 KB, 11 trang )

NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NÔNG SẢN VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
GS. TS. Nguyễn Kế Tuấn
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
1- Hội nhập Quốc tế- Những cơ hội và thách thức với nông nghiệp
Việt Nam
Ngày nay, khi hoạch định chiến lược phát triển, tất cả các quốc gia, các
ngành và các doanh nghiệp đều phải tính đến những tác động thuận nghịch
của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đến sự phát triển của mình. Hội
nhập kinh tế quốc tế có tác động tới tất cả các ngành và lĩnh vực kinh tế.
Không những với Việt Nam mà với tất cả các nước trên thế giới, kể cả các
nước phát triển, nông nghiệp là lĩnh vực hết sức nhạy cảm và dễ bị tổn
thương trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại những cơ hội to lớn và cũng
đặt ra những thách thức gay gắt với phát triển nông thôn Việt Nam
Những cơ hội chủ yếu:
- Khả năng mở rộng thị trường hàng nông sản
Mở rộng thị trường là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu
của quá trình chuyển nền nông nghiệp tự cung tự cấp sang nền nông nghiệp
hàng hoá. Bên cạnh việc coi trọng thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất
khẩu nông sản được coi là một trong những định hướng chiến lược của phát
triển nông nghiệp Việt Nam. Việc hội nhập quốc tế thông qua các hiệp định
thương mại song phương và đa phương, tham gia vào các định chế kinh tế
khu vực và quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội thuận lợi để đưa hàng nông sản
Việt nam thâm nhập thị trường quốc tế. Quá trình đó cũng tạo nên sức ép
hữu hình thúc đẩy đổi mới quá trình sản xuất, ứng dụng những thành tựu
mới của khoa học và công nghệ để phát huy lợi thế của nền nông nghiệp
nhiệt đới, tài nguyên sinh học đa dạng và nguồn nhân lực dồi dào của nông
thôn Việt Nam.
- Thu hút đầu tư vào phát triển nông nghiệp và nông thôn
Với trình độ phát triển hiện tại, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế nói chung,


đặc biệt là từ nông nghiệp và nông thôn, còn hết sức nhỏ bé, không có khả
năng đáp ứng nhu cầu đầu tư. Việc hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra điều
kiện khơi thông dòng vốn từ nước ngoài, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào phát triển nông nghiệp và nông thôn. Điều này được lý giải bởi những
điểm chủ yếu sau đây: 1/ Việt Nam là nước có tiềm năng và lợi thế phát triển
nền nông nghiệp có giá trị kinh tế cao; 2/ nhiều hàng nông sản Việt Nam đã
khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế; 3/ nông nghiệp và nông thôn là
khu vực được Nhà nước Việt Nam khuyến khích đầu tư, do vậy, nhận được
sự ưu đãi đầu tư cao; 4/ hội nhập quốc tế thúc đẩy việc cải thiện môi trường
đầu tư, tạo nên sự yên tâm cho các nhà đầu tư. Có thể hy vọng rằng, với
chính sách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong tương lai, nông nghiệp
và nông thôn Việt Nam sẽ trở thành địa bàn và lĩnh vực hấp dẫn mạnh hơn
các nhà đầu tư nước ngoài so với hiện nay
1
.
- Tiếp nhận chuyển giao, phát triển khoa học và công nghệ
Các quan hệ kinh tế quốc tế không chỉ bao hàm quan hệ thương mại
hàng hoá và đầu tư, mà còn bao hàm các hoạt động hợp tác khoa học và
công nghệ, nâng cao năng lực công nghệ của các bên hữu quan. Ngay trong
quan hệ trao đổi hàng hoá và đầu tư cũng đã chứa đựng sự chuyển giao và
phát triển khoa học và công nghệ. Hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế
quốc tế, Việt Nam sẽ có cơ hội thuận lợi trong tiếp nhận chuyển giao và phát
triển năng lực khoa học và công nghệ để khai thác tiềm năng to lớn của nền
nông nghiệp nhiệt đới thông qua: 1/ tiếp nhận công nghệ sản xuất và kỹ năng
quản lý tiên tiến qua thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; 2/ tham gia nhiều
hơn các chương trình về hợp tác khoa học công nghệ đa phương và song
phương; 3/ tăng thêm các nguồn hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực khi gia
nhập các định chế kinh tế quốc tế với tư cách nước nghèo và kém phát triển;
4/ điều kiện thuận lợi trong chuyển giao công nghệ; 5/ có cơ hội tiếp cận và
học hỏi công nghệ sản xuất và quản lý tiên tiến qua các trao đổi chuyên gia,

tham dự các khoá đào tạo.
Những thách thức lớn:
Xuất phát điểm khi đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế của nông nghiệp
Việt Nam còn hết sức thấp kém, trong khi đó những ràng buộc của các quan
hệ kinh tế song phương và đa phương lại hết sức ngặt nghèo chính là thách
thức lớn nhất. Có thể xem xét cụ thể hơn ở một số mặt sau đây:
- Tuy đã có những bước tiến mạnh mẽ, nhưng nền nông nghiệp Việt
Nam về cơ bản chưa thoát khỏi tình trạng quy mô nhỏ, phân tán và lạc hậu
2
.
1
Đến nay, cả ngành nông nghiệp mới có 558 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn
đầu tư là 2,86 tỷ USD. Số vốn đầu tư đã thực hiện là 1,39 tỷ USD, đạt gần 50%.
2
Nông thôn Việt Nam có gần 12 triệu hộ, 8 triệu ha đất canh tác được chia thành 75 triệu
thửa ruộng, bình quân mỗi hội chỉ có 0,7 ha đất cạnh tác, bình quân mỗi lao động nông
nghiệp làm ra 300USD/năm.
Tình trạng này là cản trở trực tiếp việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp và nông thôn, ứng dụng những thành tựu mới của khoa học
và công nghệ.
- Nông nghiệp phát triển chủ yếu theo bề rộng dựa trên khả năng tự
nhiên, mức đầu tư khoa học và công nghệ thấp, khả năng cạnh tranh của
một số hàng nông sản nước ta trên thị trường thế giới còn thấp do năng suất,
chất lượng, chi phí sản xuất cao, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế
biến lạc hậu.
- Khó khăn trong việc vượt qua các rào cản kỹ thuật hết sức khắt khe
của các nước công nghiệp phát triển nhằm bảo hộ sản xuất trong nước của
họ (chẳng hạn, dư lượng kháng sinh trong một số mặt hàng thuỷ sản, điều
kiện về vệ sinh và kiểm dịch động thực vật…).
- Cơ sở hạ tầng, dịch vụ, hệ thống pháp lý còn nhiều bất cập so với yêu

cầu hội nhập. Hạ tầng dịch vụ thương mại hàng nông lâm sản cũng còn thiếu
nhiều: thiếu cảng chuyên dụng; chi phí bốc xếp chờ đợi cao
3
. Các yêu cầu về
thú y, vệ sinh an toàn nông sản thực phẩm còn xa mới đáp ứng được yêu
cầu
4
.
- Thiên tai gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất nông nghiệp, xói mòn
thoái hoá đất canh tác, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên rừng. Cơ sở
vật chất phục vụ dự báo, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai còn
nghèo nàn lạc hậu. Tình trạng này có thể gây nên tình trạng bất ổn trong phát
triển nông nghiệp Việt Nam và ảnh hưởng đến thực hiện các cam kết quốc
tế.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và sẽ tham gia
một loạt những định chế kinh tế khu vực và thế giới (Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN - AFTA, Khu vực tự do thương mại ASEAN - Trung Quốc;
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ; Tổ chức Thương mại thế giới -
WTO…). Mỗi định chế có những yêu cầu và cam kết cụ thể riêng với nông
nghiệp, song đều quy tụ vào tăng cường các quy định và luật lệ để điều
chỉnh chính sách nông nghiệp theo 3 nội dung sau:
3
Ví dụ, chi phí tại cảng cho mỗi tấn gạo xuất khẩu của Việt Nam cao hơn 2 lần so Thái
Lan.
4
Trong việc bảo quản thuốc bảo vệ thực vật, "81,4% số người sử dụng cất giữ thuốc
trong nhà, gầm giường ngủ; 7% để ở chuồng lợn, chuồng gà", trong sử dụng, "trên 94%
số hộ sử dụng không có hướng dẫn, tự pha chế theo ý mình; trên 80% không hiểu biết
tính độc hại của mỗi loại thuốc, 50% dùng tay trần pha chế thuốc" (Báo Lao động thủ đô,
ngày 31/7/2003).

- Mở cửa thị trường hàng nông sản: thực hiện thuế hoá các biện pháp
phi thuế và cam kết thuế, coi thuế là biện pháp duy nhất để bảo hộ sản xuất
trong nước.
- Không trợ cấp của Chính phủ cho xuất khẩu nông sản. Với các nước
hiện nay đang trợ cấp xuất khẩu phải cam kết giảm chủng loại và giá trị trợ
cấp.
- Làm minh bạch các loại trợ cấp của Chính phủ với sản xuất nông
nghiệp. Các chính sách đầu tư phát triển không làm bóp méo thương mại
(nghiên cứu khoa học, đào tạo, khuyến nông, cơ sở hạ tầng…) được khuyến
khích áp dụng. Cắt giảm các loại trợ cấp bóp méo thương mại nếu vượt qua
mức cho phép.
2- Thực trạng khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam
Trong quá trình đổi mới về kinh tế, nông nghiệp là lĩnh vực đạt được
những thành tựu hết sức to lớn. Liên tục trong nhiều năm, sản xuất nông
nghiệp đạt mức tăng trưởng trên 4,5%/năm. Nông nghiệp Việt Nam đang
trong quá trình chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá trên cơ sở khai thác lợi
thế về tài nguyên sinh học đa dạng. Sản xuất lương thực, chăn nuôi, rau quả
và cây công nghiệp đều có những bước phát triển mạnh mẽ.
Cùng với việc đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu thị trường nội địa,
xuất khẩu nông sản cũng tăng nhanh cả về sản lượng và kim ngạch. Tỷ trọng
hàng nông lâm sản xuất khẩu chiếm khoảng 30-35% khối lượng hàng nông
sản thực phẩm làm ra, trong đó lúa gạo chiếm khoảng 20%, cà phê: 95%,
cao su: 85%, hạt điều: 90%, chè: 80%, hạt tiêu: 95% Một số nông sản của
Việt Nam đã khẳng định được vị thế trên thị trường thế giới (gạo, cà phê, hạt
điều, hạt tiêu). Thị trường tiêu thụ nông sản đã được mở rộng, ngoài các khu
vực tiêu thụ truyền thống nông sản của Việt Nam, như Trung Quốc,
ASEAN, Nga và các nước Đông Âu, nông sản Việt Nam cũng đã bước đầu
thâm nhập thị trường Trung Đông, EU, Mỹ và châu Phi.
Một số hàng nông sản xuất khẩu chủ lực
M.hàng ĐV 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002

Gạo 1.000T 1.988 3.003 3.575 3.730 4.508 3.476 3.729 3.241
Cà phê 1.000T 248 284 392 382 482 733 931 711
Hạt tiêu 1.000T 17,9 25,3 24,7 15,1 34,8 37,0 57,0 77,0
Hạt điều 1.000T 19,8 16,5 33,3 25,7 18,4 34,2 43,7 62,8
Cao su 1.000T 138,1 194,5 194,2 191,0 263,0 273,4 308,1 444,0
Rau quả Tr.
USD
56,1 90,0 71,0 53,0 106,5 213,1 330,0 200,0
Chè 1.000T 18,8 20,8 32,9 33,0 36,0 55,6 68,2 75,0
Lạc 1.000T 11,5 127,0 86,0 87,0 56,0 76,1 78,2 107,0
Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam - Kinh tế 2002-2003
Trong cơ cấu trị giá xuất khẩu hàng hoá, tỷ trọng trị giá hàng nông sản
xuất khẩu còn chiếm vị trí khiêm tốn và có xu hướng giảm: nếu năm 1995
chiếm tới 32%, thì năm 2001 chỉ còn khoảng 20%. Cùng với những tiến bộ
trong việc thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển
công nghiệp chế biến, sự giảm dần tỷ trọng đó được coi là hợp lý. Song điều
đang quan tâm là sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường
quốc tế còn thấp kém, do vậy, hiệu quả xuất khẩu chưa cao, chưa tạo được
thế đứng vững chắc trên thị trường.
Dưới đây xin nêu khái quát khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng
nông sản xuất khẩu chủ lực để tham khảo.
Gạo là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam được các
nhà hoạch định chính sách xếp vào nhóm có sức cạnh tranh cao. Sự phát
triển lúa gạo là một trong những thành tựu nổi bật của Việt Nam trong công
cuộc đổi mới về kinh tế. Từ chỗ hàng năm phải nhập khẩu trên dưới 1 triệu
tấn lương thực, Việt Nam đã vươn lên là một trong những nước đứng đầu
thế giới về xuất khẩu gạo với sản lượng xuất khẩu khoảng từ 3,5 đến 4 triệu
tấn/năm. Tuy nhiên, trên thị trường thế giới, gạo Việt Nam lại yếu thế cạnh
tranh về phẩm chất theo yêu cầu của thị trường và giá cả. Gạo xuất khẩu
Việt Nam chủ yếu là gạo tẻ thường, trong một vài năm gần đây đã bắt đầu

chú ý sản xuất và xuất khẩu gạo phẩm chất cao và gạo đặc sản nhưng số
lượng chưa nhiều. Về giá cả, giá gạo xuất khẩu của Việt nam thường thấp
hơn giá gạo cùng loại của Thái lan từ 10 đến 20 USD/tấn. Theo Thời báo
Kinh tế Việt nam ngày 21/7/2003, giá gạo 5% tấm (FOB) của Thái lan là
195 USD/tấn, của Việt Nam là 181 USD/tấn; gạo 10% tấm là 192 USD và
172 USD/tấn, gạo 15% tấm là 188 USD và 165 USD; gạo 25% tấm là 175
USD và 160 USD.
Cà phê cũng là mặt hàng được xếp vào nhóm có sức cạnh tranh cao do
năng suất cao và phẩm chất tốt. Sản lượng cà phê xuất khẩu tăng với tốc độ
nhanh. Nếu năm 1995, sản lượng cà phê xuất khẩu đạt 228.100 tấn thì năm
2001 đã đạt 931.200, tăng hơn 3,7 lần. Song kim ngạch xuất khẩu lại không
tăng tỷ lệ thuận với sản lượng. Có 3 nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng
này: 1./ trên thị trường thế giới, cung lớn hơn cầu cà phê làm cho giá xuất
khẩu giảm; 2./ trong biến động về giá cả, cả cà phê Arabica và cà phê
Robusta đều bị giảm giá, nhưng cà phê Robusta giảm nhanh hơn giá cà phê
Arabica, trong khi đó Việt Nam lại chủ yếu trồng cà phê Robusta - loại cà
phê dễ trồng, năng suất cao nhưng chất lượng thấp và do đó giá thấp hơn; 3./
Việt nam chủ yếu xuất khẩu cà phê hạt (cà phê nguyên liệu) và xuất khẩu
qua các trung gian.
Cao su và chè là 2 mặt hàng được xếp vào nhóm hàng có khả năng cạnh
tranh trung bình do có lợi thế về chi phí lao động thấp. Yếu thế cạnh tranh
của 2 mặt hàng này là năng suất và chất lượng còn thấp. Có thể xem xét một
số đối chứng cụ thể:
- Năng suất cao su Việt Nam đạt 545 kg/ha, trong khi của Inđônêsia là
743 kg, Thái Lan là 1.479 kg, năng suất trung bình của thế giới là 910kg.
- Năng suất chè của Việt Nam là 935 kg/ha, của Inđônêsia là 1.386 kg,
Malaysia là trên 2.000 kg. Giá chè xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn
gái chè trên thị trường thế giới từ 600 USD/tấn đến 1.000 USD/tấn
5
.

Trái cây là một trong những mặt hàng nông sản có triển vọng mở rộng
xuất khẩu. Với những lợi thế về thổ nhưỡng và khí hậu, diện tích trồng cây
ăn trái tăng khá nhanh: nếu năm 1985 cả nước có 218.000 ha thì năm 2003
đã lên tới 450.000 ha, trong đó diện tích trồng tập trung là 70.000 ha. Tuy
nhiên, trái cây Việt nam vẫn chưa hấp dẫn người tiêu dùng nước ngoài, thậm
chí ngay trên thị trường nội địa việc tiêu thụ cũng gặp nhiều khó khăn. Năm
2002 mới xuất khẩu khoảng 100.000 tấn bằng cả chính ngạch và tiểu ngạch.
Tuy có một số loại trái cây “đặc sản”, nhưng nhìn chung, so với các nước
trong khu vực, sức cạnh tranh của trái cây Việt Nam còn thua kém cả về chất
lượng và giá thành. Về mặt chất lượng, sự phát triển trái cây Việt Nam vẫn
măng nặng tính tự nhiên, sử dụng nhiều giống cũ, chất lượng và năng suất
thấp, mức độ ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ chưa nhiều và chưa
rộng rãi. Chính điều này đã làm giảm độ hấp dẫn của trái cây với khách
hàng. Chẳng hạn, trong khi Thái Lan xuất khẩu được 3,5% trong tổng sản
lượng 1,7 triệu tấn chuối, Philippines xuất được tới 35% trong tổng sản
lượng 3,5 triệu tấn chuối thì Việt Nam chỉ xuất được 0,8% trong tổng sản
lượng 1,32 triệu tấn. Giá thành sản xuất trái cây Việt Nam cũng cao hơn
5
Thời báo Kinh tế Việt nam, 24/3/2003
nhiều nước trong khu vực: so với Thái Lan, giá thành cam Việt Nam cao
hơn 4 lần, xoài cao hơn gấp 5 lần và cà chua cao gần gấp đôi
6
.
Cũng có thể thấy tình trạng tương tự nếu xem xét với những loại nông
sản xuất khẩu khác, như cao su, chè, hồ tiêu, hạt điều.
Qua một số nét khái quát về tình hình nêu trên có thể thấy, xuất khẩu
nông sản của Việt Nam đã có những bước phát triển khá mạnh mẽ, nhưng cơ
cấu nông sản xuất khẩu phản ánh rõ thực trạng nông nghiệp vẫn chưa thoát
khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, kỹ thuật lạc hậu, chủ yếu phát triển theo bề
rộng trên cơ sở khai thác lợi thế sẵn có, khả năng đáp ứng yêu cầu thị trường

quốc tế còn thấp kém. Sức cạnh tranh của ngay cả những mặt hàng nông sản
xuất khẩu chủ lực cũng còn thấp kém. Chính điều này đã làm hạn chế hiệu
quả xuất khẩu nông sản, hạn chế khả năng thâm nhập và củng cố vị thế trên
thị trường thế giới. Sức cạnh tranh thấp kém của nông sản và thách thức lớn
nhất với nông nghiệp việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Một số giải pháp
3.1. Định hướng chiến lược phát triển nông sản xuất khẩu.
Lâu nay, sản xuất nông nghiệp Việt Nam chủ yếu phát triển theo bề
rộng trên cơ sở khai thác các khả năng sẵn có, mặt số lượng được coi trọng
hơn mặt chất lượng. Đó chính là một trong những nguyên nhân quan trọng
làm cho nông sản Việt Nam chưa đáp ứng tốt nhu cầu của các thị trường
khác nhau, hiệu quả xuất khẩu thấp và người sản xuất gặp khó khăn trong
tiêu thụ hàng hoá. Việc hình thành một chiến lược phát triển có luận cứ khoa
học được coi là điều kiện tiền đề để áp dụng các thành tựu tiến bộ khoa học
và công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu
nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Chiến lược phát triển nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường
phải xuất phát từ nhu cầu cụ thể của thị trường, bảo đảm khả năng đáp ứng
tốt nhất nhu cầu thị trường về chủng loại, số lượng, chất lượng, thời gian và
chi phí. Điều này hoàn toàn trái với tư duy kiểu cũ trong xây dựng chiến
lược: dựa trên cơ sở khả năng để hoạch định phương hướng sản xuất. Trong
quá trình hoạch định chiến lược phát triển nông nghiệp, phải coi trọng công
tác dự báo nhu cầu trung hạn và dài hạn theo từng loại nông sản và theo từng
khu vực thị trường để vừa có cơ sở định hướng phát triển sản xuất, vừa có
chính sách thích ứng đảm bảo khả năng thâm nhập thị trường và củng cố vị
thế của hàng hoá trên từng thị trường cụ thể. Chiến lược phát triển nông
nghiệp phải hướng tới hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung
6
Thời báo Kinh tế Việt nam, 17/8/2003
nhằm tạo điều kiện đầu tư ứng dụng các thành tựu mới của khoa học và công

nghệ, nâng cao chất lượng và giá trị nông sản hàng hoá.
Chiến lược phát triển nông nghiệp được hoạch định có cơ sở khoa học
phải được sử dụng như một trong những công cụ trọng yếu để Nhà nước
định hướng đầu tư phát triển và xây dựng các cơ chế chính sách thúc đẩy các
nhà sản xuất đầu tư theo định hướng đó.
3.2. Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ
Nâng cao trình độ khoa học và công nghệ là điều kiện cơ bản nâng cao
sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Sự phát triển mạnh mẽ của
nông nghiệp trong những năm qua có phần đóng góp quan trọng của khoa
học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học. Nhiều loại giống cây trồng
vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện tự nhiên đã
thay thế cho những loại giống cũ. Khoa học và công nghệ bước đầu phát huy
vai trò tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng cao sức
cạnh tranh của nông sản hàng hoá. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu chuyển
đổi nhanh, có hiệu quả và bền vững sản xuất nông nghiệp theo định hướng
thị trường và nâng cao sức cạnh tranh của nông sản, hoạt động nghiên cứu
và ứng dụng khoa học và công nghệ vẫn còn nhiều bất cập. Đến nay, nhiều
vùng, kể cả những vùng sản xuất hàng hoá tập trung, vẫn tồn tại kỹ thuật
canh tác kiểu cổ truyền, sử dụng giống cây con năng suất, chất lượng thấp,
không thích ứng với nhu cầu thị trường quốc tế. Ngoài ra, tình trạng lạm
dụng những chế phẩm hoá học trong trồng trọt và chăn nuôi đã gây ảnh
hưởng xấu tới cả người sản xuất, người tiêu dùng và môi trường sinh thái.
Để khoa học và công nghệ góp phần tích cực vào phát triển nền nông
nghiệp hàng hoá, trong những năm trước mắt cần chú trọng tập trung nghiên
cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ cao việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất
nông nghiệp, khai thác các lợi thế của từng vùng sinh thái vừa đảm bảo phát
triển bền vững, vừa nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành, nâng
cao sức cạnh tranh của nông sản, tăng giá trị kinh tế trên một đơn vị diện
tích. Với từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi, cần chú ý đổi mới công
nghệ đồng bộ ở các khâu trước, trong và sau sản xuất theo hướng hiện đại.

Đẩy mạnh việc phát triển công nghệ sinh học trong nông nghiệp bằng việc
thay thế các giống cây trồng và vật nuôi có năng suất và chất lượng thấp,
không phù hợp với yêu cầu thị trường bằng các loại giống cây mới có năng
suất, chất lượng cao, bảo đảm được những tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm
nghiêm ngặt nhất theo yêu cầu thị trường trong và quốc tế.
Cùng với việc ứng dụng kỹ thuật canh tác và những giống cây trồng,
vật nuôi mới để tạo nông sản hàng hoá có chất lượng cao, giá thành hạ và
phù hợp với thị hiếu tiêu dùng, cần hết sức coi trọng nghiên cứu và ứng
dụng khoa học và công nghệ vào khâu sau thu hoạch
7
. Đây là khâu có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc giảm tổn thất, nâng cao hiệu quả sản xuất và
bảo đảm đáp ứng tốt yêu cầu của người tiêu dùng. Ngoài việc hiện đại hoá
kỹ thuật phơi sấy, cần chú trọng nghiên cứu các phương pháp bảo quản rau,
hoa, quả, thịt, sữa và các loại nông sản thực phẩm khác. Bảo đảm đưa đến
người tiêu dùng những nông sản tươi sống hấp dẫn cảm quan bằng màu sắc,
hương vị và bảo đảm tuyệt đối vệ sinh an toàn thực phẩm.
3.3. Phát triển công nghiệp chế biến nông sản
Phát triển công nghiệp chế biến là cách thức nâng cao giá trị gia tăng
của nông sản và thu hẹp tình trạng xuất khẩu sản phẩm thô. Việc phát triển
công nghiệp chế biến còn tạo nên thị trường nội địa to lớn và ổn định cho
sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, công nghiệp chế biến nông sản của Việt
Nam còn nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, tỷ trọng nông sản chế biến trong tổng
sản lượng sản xuất còn rất thấp (chè: 55%; rau quả: 55, thịt: 1% ).
Để phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cần giải quyết nhiều vấn đề,
trong đó chủ yếu là:
- Quy hoạch xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn theo
định hướng xuất khẩu (vùng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng;
vùng cà phê ở Tây Nguyên; vùng chè ở trung du và miền núi phía Bắc; vùng
rau quả ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng…). Từ đó,

tập trung đầu tư thâm canh và ứng dụng các thành tựu khoa học và công
nghệ mới để đáp ứng tốt yêu cầu chế biến xuất khẩu.
- Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản gần với
vùng nguyên liệu. Có những chính sách ưu đãi kích thích sự tham gia của tất
cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến xuất khẩu.
Thực hiện song song 2 hướng: đầu tư đổi mới hiện đại hoá thiết bị công
nghệ của các doanh nghiệp chế biến nông sản hiện có; đầu tư xây dựng các
doanh nghiệp chế biến mới với trình độ công nghệ hiện đại.
- Thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các chủ thế sản xuất nguyên
liệu và chủ thể chế biến nguyên liệu nông sản. Quyết định số 80/QĐ-TTg
ngày 24/6/2002 về tiêu thụ nông sản hàng hoá qua hợp đồng là cơ sở để thực
hiện việc này. Vấn đề quan trọng là đề cao trách nhiệm và sự hợp tác của các
bên trong việc thực hiện những điều đã cam kết.
3.4. Các giải pháp thị trường và hỗ trợ xuất khẩu
7
Tỉ lệ thất thoát ở khâu thu hoạch và sau thu hoạch của lương thực là 8-10%, rau quả 7-
8%
Có mấy vấn đề quan trọng cần quan tâm giải quyết:
- Trợ giúp nâng cao năng lực thị trường cho các chủ thể sản xuất nông
sản. Chỉ khi nào bản thân người sản xuất hàng hoá có hiểu biết về thị trường
và các quan hệ thị trường họ mới biết cách điều chỉnh sản xuất của mình
theo yêu cầu của thị trường. Đây chính là mặt yếu của những người sản xuất
hàng hoá ở nông thôn hiện nay, do vậy, họ dễ bị điều tiết một cách tự phát
bởi các quan hệ thị trường, dễ bị thua thiệt trong hành xử trên thị trường.
Công tác khuyến nông, khuyến thương cần đặc biệt quan tâm đến việc cung
cấp những kiến thức cơ bản về thị trường và nâng cao năng lực thị trường
của các chủ thể sản xuất hàng hoá ở nông thôn.
- Trợ giúp các chủ thể sản xuất nông sản xây dựng thương hiệu hàng
hoá, trước hết với những cây, con đặc sản ở từng vùng. Đây vừa là cách thức
thâm nhập và củng cố vị thế của hàng hoá trên thị trường quốc tế, vừa là

cách thức hữu hiệu bảo vệ quyền lợi của người sản xuất trong cạnh tranh
quốc tế.
- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia trực
tiếp vào việc tìm kiếm thị trường, khách hàng và tổ chức sự phối hợp hành
động giữa các chủ thể ấy trong việc xử lý các tình huống khác nhau trên
cùng một thị trường và cùng một loại hàng hoá.
- Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại nông sản thông qua các hoạt
động tham gia hội chợ- triển lãm trong và ngoài nước; quảng bá hàng hoá và
doanh nghiệp sản xuất hàng hoá; tiến tới thành lập các trung tâm giao dịch
nông sản ở các vùng sản xuất hàng hoá tập trung…
3.5. Liên kết quốc tế trong sản xuất và xuất khẩu nông sản
So với một số nước trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam có điều kiện
tự nhiên và cơ cấu sản xuất nông nghiệp khá tương đồng, song các nước này
lại có lợi thế hơn Việt Nam ở trình độ khoa học- công nghệ và kinh nghiệm
hoạt động thương mại quốc tế. Trong điều kiện đó, để bảo đảm hiệu quả của
xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản, cần coi trọng việc
mở rộng quan hệ liên kết quốc tế trong cả sản xuất và xuất khẩu. Quan hệ
liên kết này có thể bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
- Phối hợp trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học -công nghệ để tạo ra
những giống cây trồng, vật nuôi có khả năng cạnh tranh cao.
- Phối hợp xây dựng hệ thống dịch vụ kiểm dịch động thực vật xuất
khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển nông nghiệp và
nông thôn.
- Phối hợp các chính sách thương mại của các nước trong khu vực trong
thực hiện hoạt động xuất khẩu nông sản.
- Hình thức các Hiệp hội theo ngành hàng để phối hợp hành động trên
thị trường quốc tế…

×