Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Chiến lược phát triển xuất-nhập khẩu thời kỳ 2001-2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.82 KB, 43 trang )

BỘ THƠNG MẠI

----

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
--------------------Hà nội, ngày 16 tháng 9 năm 2000

CHIẾN LỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU
THỜI KỲ 2001-2010
--------Chiến lợc phát triển xuất - nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 đợc xây
dựng nhằm cụ thể hoá những định hớng nêu trong Chiến lợc phát triển kinh
tế xã hội của Đảng đang đợc thảo luận, đề ra những định hớng và biện pháp
cụ thể để phục vụ đắc lực sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Chiến lợc xuất - nhập khẩu đợc trình bày thành 3 phần :
Phần thứ nhất đa ra những đánh giá tổng quát về hoạt động xuất nhập khẩu trong 10 năm trớc.
Phần thứ hai đa ra những định hớng lớn cho công tác xuất - nhập
khẩu.
Phần thứ ba đề xuất các chính sách và giải pháp thực hiện Chiến lợc.
PHẦN THỨ NHẤT
ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT HOẠT ĐỘNG
XUẤT - NHẬP KHẨU THỜI KỲ 1991-2000
I. NHỮNG THÀNH TỰU ĐÃ ĐẠT ĐỢC :

1. Đã đạt đợc mục tiêu đề ra trong Chiến lợc phát triển kinh tế xã hội
thời kỳ 1991-2000 : kim ngạch xuất khẩu năm 2000 dự kiến đạt 13,5 tỷ
USD, gấp 5,6 lần kim ngạch năm 1990 (2,4 tỷ USD). Nhịp độ tăng trởng
bình quân 18,4%/năm, nhanh hơn tốc độ tăng trởng GDP khoảng 2,6 lần
(GDP tăng bình quân 7,6%/năm).



2. Cơ cấu xuất khẩu đã đợc cải thiện theo hớng “tăng các mặt hàng
chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thơ, tạo một số mặt hàng có khối lợng
lớn và thị trờng tơng đối ổn định”. Tỷ trọng sản phẩm chế biến đã tăng từ
8% vào năm 1991 lên khoảng 40% vào năm 2000. Năm 1991 mới có 4 mặt
hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 100 triệu USD là dầu thô, thủy sản, gạo và
hàng dệt may; nay có thêm 8 mặt hàng nữa là cà phê, cao su, điều, giày dép,
than đá, điện tử, thủ công mỹ nghệ và rau quả. Về một số mặt hàng, nớc ta
đã chiếm lĩnh vị trí cao : gạo đứng hàng thứ hai thế giới, cà phê đúng thứ
hai, hạt tiêu và hạt điều đứng thứ ba.
3. Việc thực hiện chủ trơng “phát triển nhiều hình thức dịch vụ thu
ngoại tệ, nhất là hoạt động du lịch” có nhiều tiến bộ. Khách du lịch nớc
ngoài vào Việt Nam đã tăng từ 250 ngàn lợt ngời vào năm 1991 lên khoảng
2 triệu lợt ngời vào năm 2000, doanh thu đạt khoảng 450 triệu USD. Lao
động ở nớc ngồi, tính đến năm 2000 có khoảng 9 vạn ngời, đem lại khoảng
500 triệu USD thu nhập hàng năm. Các dịch vụ khác nh ngân hàng, hàng
không, viễn thông, xây dựng, y tế, giáo dục ... thu đợc khoảng 1 tỷ USD vào
năm 2000.
4. Nhập khẩu, về cơ bản, đã “phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản
xuất và đổi mới công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lợng và sức cạnh tranh
của hàng hoá, đáp ứng nhu cầu cần thiết của đời sống”. T liệu sản xuất hiện
nay chiếm gần 95% kim ngạch nhập khẩu, trong đó 26-27% là máy móc
thiết bị, 68% là nguyên nhiên vật liệu; hàng tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 5%
(năm 1990 là 15%). Nhập siêu giảm cả về giá trị tuyệt đối lẫn tơng đối: năm
1996 còn nhập siêu gần 4 tỷ USD, tới năm 1999 chỉ còn khoảng 0,2 tỷ USD;
tỷ trọng nhập siêu so với xuất khẩu đã giảm từ 33% trong kỳ 1991-1995
xuống còn 18% trong kỳ 1996-2000.
5. Đã vợt qua đợc sự khủng hoảng thị trờng vào đầu những năm 90 do
chế độ XHCN ở Liên Xơ và Đơng Âu bị xố bỏ; đã đẩy lùi đợc chính sách
bao vây, cấm vận và về cơ bản thực hiện đợc chủ trơng “đa dạng hoá thị trờng và đa phơng hoá quan hệ kinh tế ... tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở

các thị trờng mới, phát triển các quan hệ mới”. Nay nớc ta có quan hệ thơng
mại với trên 160 nớc và vùng lãnh thổ trong đó đã ký Hiệp định Thơng mại
với 61 nớc. Chủ trơng “gia nhập các tổ chức và hiệp hội kinh tế quốc tế
khác khi cần thiết và có điều kiện” đã đợc thực hiện bằng việc gia nhập
ASEAN (1995), ASEM (1996), APEC (1998) và trở thành quan sát viên
WTO (1995).


6. Chính phủ đã đổi mới một cách cơ bản cơ chế quản lý theo hớng
mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, giảm dần hàng rào phi thuế, hạn
chế cơ chế “xin cho”, giảm bớt sự can thiệp của Nhà nớc vào hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, nâng cao vai trị của các cơng cụ vĩ mơ nh thuế, lãi
suất, tỷ giá. Chính phủ cũng đã dành sự quan tâm đặc biệt cho xuất khẩu
thông qua các chơng trình hỗ trợ nh trợ cấp, trợ giá, lập Quỹ Hỗ trợ, Quỹ
Thởng ... . Hành lang pháp lý từng bớc đợc hồn thiện; trong đó đã thơng
qua đợc Luật Thơng mại.
Nhìn chung lại, trong 10 năm qua, lĩnh vực xuất - nhập khẩu đã đạt đợc nhiều thành tựu to lớn, về cơ bản đã thực hiện đợc những chủ trơng nêu
ra trong Chiến lợc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, góp
phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc, thúc đẩy sản
xuất, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, thu ngoại tệ để trang trải nhu cầu
nhập khẩu và tích luỹ.
Những thành tựu trên bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ yếu sau :
Một là, công cuộc đổi mới đã thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển, cơ
cấu sản xuất chuyển dịch dần, từ đó thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cơ cấu
xuất - nhập khẩu.
Hai là, xuất khẩu đợc đặt thành một nhiệm vụ trọng tâm, sản xuất gắn
liền với lu thông, xuất khẩu; các cơ chế chính sách ngày càng phù hợp,
thơng thống, tạo thuận lợi cho các ngành sản xuất, các địa phơng và các
thành phần kinh tế tham gia xuất nhập khẩu.
Ba là, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phơng

hoá, từng bớc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã góp phần đẩy
lùi chính sách bao vây cấm vận, mở rộng thị trờng xuất - nhập khẩu. Đầu t
nớc ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong kinh doanh xuất - nhập khẩu
(từ 4% năm 1994 lên 22,3% năm 1999, nếu kể cả dầu khí thì lên tới 35%).
II. NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI :

1. Quy mô xuất khẩu còn quá nhỏ so với các nớc trong khu vực; bình
qn tính theo đầu ngời khoảng 175 USD năm 2000, trong khi Malaysia
năm 1996 đã đạt mức 3700 USD, Thái lan 933 USD và Philippin là 285
USD. Riêng Trung Quốc năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đạt 195 tỷ USD
bình quân đầu ngời 163 USD.


2. Việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất, ngành hàng cha bám sát tín hiệu
của thị trờng thế giới nên nhiều sản phẩm làm ra không tiêu thụ đợc. Khả
năng cạnh tranh của nhiều hàng hóa cịn thấp do giá thành cao, chất lợng còn
kém, mẫu mã cha phù hợp với nhu cầu thị trờng. Đầu t vào khâu nâng cao
khả năng cạnh tranh và khả năng tiêu thụ cha thoả đáng. Tỷ trọng hàng thô
và sơ chế trong cơ cấu xuất khẩu còn khá cao. Trong số sản phẩm chế biến,
hàng gia cơng cịn chiếm tỷ trọng lớn. Tỷ trọng sản phẩm có hàm lợng cơng
nghệ và trí tuệ cao còn rất nhỏ. Xuất khẩu dịch vụ còn thấp xa so với tiềm
năng.
3. Nhập khẩu cha cải thiện đợc tình trạng lạc hậu về cơng nghệ ở một
số ngành; ít tiếp cận đợc với cơng nghệ nguồn. Tình trạng nhập siêu lớn tuy
đã đợc khắc phục nhng cha thật vững chắc.
4. Sự hiểu biết về thị trờng ngồi cịn hạn chế. Nhà nớc cha cung cấp
đợc thông tin đầy đủ cho các doanh nghiệp. Ngợc lại, nhiều doanh nghiệp
còn ỷ lại vào Nhà nớc, thụ động chờ khách hàng. Đối với một số thị trờng,
hàng xuất khẩu vẫn còn phải qua trung gian.
5. Việc hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới cịn khơng ít lúng

túng. Cho tới nay cha hình thành đợc chiến lợc tổng thể, cha có lộ trình giảm
thuế và hàng rào phi quan thuế dài hạn. Nhiều doanh nghiệp cịn trơng chờ
vào sự bảo hộ của Nhà nớc và Nhà nớc cũng cha đa ra đợc lộ trình giảm dần
sự bảo hộ.
6. Cơng tác quản lý nhà nớc về thơng mại tuy đã có nhiều sự cải tiến
nhng nhìn chung cịn khá thụ động. Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phơng đã có chuyển biến tích cực nhng nhìn chung cha tạo đợc sức mạnh tổng
hợp. Còn thiếu cán bộ quản lý có trình độ.
Những tồn tại trên bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ yếu sau :
Một là, trình độ phát triển kinh tế của nớc ta còn thấp, cơ cấu kinh tế
nói chung cịn lạc hậu, từ năm 1997 lại chịu tác động khơng ít của cuộc
khủng hoảng trong khu vực. Tồn bộ tình hình đó tác động tiêu cực tới hoạt
động xuất - nhập khẩu.


Hai là, nền kinh tế nớc ta trên thực tế mới chuyển sang cơ chế thị trờng và mới tiếp cận với thị trờng toàn cầu trong khoảng mơi năm trở lại đây,
trình độ cán bộ cịn cha theo kịp nhu cầu nên không thể tránh khỏi bỡ ngỡ.
Ba là, còn lúng túng trong việc đề ra cơ chế quản lý nhằm thực hiện
phơng châm hớng mạnh ra xuất khẩu và chủ động hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới. Đặc biệt, nhiều chủ trơng chính sách đã đợc ban hành nhng việc
triển khai thực hiện còn chậm, kém hiệu quả.

PHẦN THỨ HAI
ĐỊNH HỚNG PHÁT TRIỂN
XUẤT - NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2001-2010
I. TÌNH HÌNH TRONG NỚC, THẾ GIỚI VÀ NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ
KHĂN ĐẶT RA CHO HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU :

Bớc vào thời kỳ 2001-2010, thế và lực của nớc ta đã khác hẳn 10 năm
trớc đây. Đất nớc đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng và
năng lực sản xuất đợc cải thiện đáng kể, thị trờng đợc mở rộng. Tuy nhiên,

trình độ phát triển kinh tế của nớc ta còn thấp, GDP bình quân đầu ngời năm
2000 mới đạt gần 400USD. Cơ cấu kinh tế và trình độ cơng nghệ nhìn chung
còn lạc hậu. Khả năng cạnh tranh còn thấp ở cả cấp độ quốc gia, doanh
nghiệp lẫn sản phẩm.
Trên bình diện quốc tế, khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ và
đang trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp, đa thế giới vào thời kỳ phát triển
mới : thời kỳ kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Các ngành dịch vụ và các
ngành kinh tế giàu hàm lợng chất xám phát triển mạnh. Khái niệm thơng mại
đợc mở rộng, bao gồm cả các sản phẩm hữu hình của nền sản xuất truyền
thống lẫn các sản phẩm “mềm” của nền sản xuất dựa vào tri thức. Mức độ
phổ cập của mạng Internet khiến tỷ trọng của thơng mại điện tử tăng nhanh,
qua đó thay đổi hẳn phơng thức kinh doanh (theo số liệu của UNCTAD thì
năm 1995, giá trị thơng mại điện tử mới có 100 triệu USD thì năm 1999 đã
là 180 tỷ USD và năm 2002 sẽ lên tới khoảng 1.234 tỷ USD).


Xu hớng tồn cầu hố, khu vực hố với các mặt tích cực và tiêu cực
của nó sẽ tiếp tục diễn biến thông qua sự hợp tác - đấu tranh phức tạp giữa
các đối tác. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng vừa qua cho thấy kinh tế thế giới và
khu vực cịn ẩn chứa nhiều nhân tố bất trắc. Khơng loại trừ khả năng sẽ còn
xảy ra các cuộc khủng hoảng về kinh tế và tài chính mới.
Trong nền kinh tế thế giới, các nớc công nghiệp phát triển vẫn giữ vị
trí áp đảo. Mỹ sẽ tiếp tục là siêu cờng hàng đầu, vừa cạnh tranh gay gắt, vừa
tìm cách dung hồ lợi ích với Tây Âu, Nhật, Nga. Trung Quốc, và ở một
chừng mực nào đó là Ấn Độ, sẽ chiếm vị trí ngày càng lớn trong nền kinh tế
và thơng mại thế giới. Châu Á - Thái Bình Dơng đang hồi phục nhanh chóng
sau khủng hoảng, tiếp tục là một thị trờng tiêu thụ rộng lớn và cùng châu Âu
hình thành khơng gian kinh tế Á - Âu (Eurasia).
Nhìn chung lại, vào thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, hoạt động xuất nhập khẩu của nớc ta có những thuận lợi và khó khăn chủ yếu sau :
1. Về thuận lợi :

Nh trên đã nói, "thế" và "lực" của nớc ta đã khác trớc. Các nguồn lực
nh lao động, đất đai, tài nguyên ... còn khá dồi dào. Cơ sở hạ tầng đợc cải
thiện hơn, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế và đẩy mạnh xuất khẩu. Với
bên ngồi, ta đã có quan hệ kinh tế - thơng mại với nhiều nớc và nhiều tổ
chức kinh tế, tài chính quốc tế. Hàng hố Việt nam đã có mặt tại tất cả các nớc lớn và các trung tâm kinh tế lớn. Quá trình hội nhập sẽ tạo cơ hội cho ta
mở rộng thị trờng để phát triển kinh tế và tăng cờng quan hệ thơng mại.
2. Về khó khăn, thách thức :
- Nớc ta vẫn là một nớc nghèo và kém phát triển. Dự kiến 10 năm tới
chỉ có thể đa GDP lên gấp đơi. Cơ cấu sản xuất sẽ tiếp tục chuyển dịch theo
hớng tiến bộ hơn song nhìn chung cịn lạc hậu so với chiều hớng phát triển
của thế giới. Thực trạng đó ảnh hởng tiêu cực tới quy mô, cơ cấu và hiệu quả
của hoạt động xuất - nhập khẩu.
- Năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm còn
thấp trong khi nớc ta lại phải nhập cuộc đua tranh ngày càng gay gắt trên thị
trờng khu vực và thế giới. Trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác xuất
nhập khẩu và cơng tác tham mu về chiến lợc, chính sách còn bất cập.


- Kinh tế thế giới và khu vực, đặc biệt là tình hình tài chính - tiền tệ tỷ giá, giá sản phẩm, nhất là giá nông sản, nhiên liệu cịn chứa đựng nhiều
nhân tố khơng ổn định, khó dự báo, có thể tác động tiêu cực tới nền kinh tế
và kinh doanh xuất - nhập khẩu của nớc ta.
Nhìn toàn cục, nớc ta đứng trớc nhiều thuận lợi hơn so với khi bớc
vào thập kỷ 90. Tuy nhiên, không thể xem thờng các thách thức, khó khăn
nh đã trình bày trên.
II. MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN XUẤT - NHẬP KHẨU :

Hoạt động xuất - nhập khẩu trong 10 năm tới cần phục vụ trực tiếp
cho mục tiêu chung sẽ đợc thông qua tại Đại hội lần thứ IX của Đảng với
nội dung cơ bản là : nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trởng xuất khẩu, góp phần
đẩy mạnh CNH-HĐH, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ; chuyển dịch cơ

cấu xuất khẩu theo hớng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế
biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lợng cơng nghệ và chất xám cao,
thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên vật
liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thơng
mại ở mức hợp lý, tiến tới cân bằng kim ngạch xuất - nhập khẩu; mở rộng
và đa dạng hoá thị trờng và phơng thức kinh doanh; hội nhập thắng lợi vào
kinh tế khu vực và thế giới.
Để đạt các mục tiêu trên, cần nắm vững các quan điểm chỉ đạo sau:
Một là, tiếp tục kiên trì chủ trơng dành u tiên cao cho xuất khẩu để
thúc đẩy tăng trởng GDP, phát triển sản xuất, thu hút lao động, có thêm
ngoại tệ;
Hai là, chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới trên cơ sở
giữ vững độc lập tự chủ và định hớng XHCN, với kế hoạch tổng thể và lộ
trình cũng nh các bớc đi hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của đất nớc
và quy định của các tổ chức mà ta tham gia;
Ba là, lấy việc phát huy nội lực, đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và đổi mới cơ chế quản lý; hoàn chỉnh hệ thống luật pháp; nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng nh của toàn bộ nền kinh tế
làm khâu then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với việc mở rộng kinh doanh
xuất - nhập khẩu, hội nhập quốc tế.


Bốn là, gắn kết thị trờng trong nớc với thị trờng ngoài nớc; vừa chú
trọng thị trờng trong nớc, vừa ra sức mở rộng và đa dạng hố thị truờng
ngồi.
Năm là, kiên trì chủ trơng đa dạng hố các thành phần kinh tế tham
gia hoạt động xuất - nhập khẩu, trong đó kinh tế Nhà nớc giữ vai trị chủ
đạo;
III. CÁC CHỈ TIÊU CỤ THỂ :
A. VỀ QUY MÔ VÀ TỐC ĐỘ TĂNG TRỞNG


Các chỉ tiêu xuất - nhập khẩu một phần quan trọng tùy thuộc vào chỉ
tiêu chung của nền kinh tế. Theo dự thảo Chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội
thời kỳ 2001-2010 thì trong vịng 10 năm tới GDP sẽ tăng gấp đơi (bình
qn hàng năm phải tăng khoảng 7,2%); giá trị sản lợng nông nghiệp tăng
khoảng 4%/năm, vào năm 2010 sản lợng lơng thực đạt 40 triệu tấn, nông
nghiệp chiếm tỷ trọng khoảng 16-17% GDP trong đó tỷ trọng sản phẩm chăn
ni tăng từ 18,6% lên 20-25%, thuỷ sản đạt sản lợng 2,5-3 triệu tấn; giá trị
gia tăng của cơng nghiệp tăng bình qn hàng năm 8-9%, đến năm 2010
công nghiệp chiếm tỷ trọng 40-41% GDP, tỷ trọng công nghiệp chế tác
chiếm 80% giá trị sản xuất cơng nghiệp.
Dự thảo Chiến lợc cịn dự kiến nhịp độ tăng trởng xuất khẩu nhanh
gấp đôi nhịp độ tăng trởng GDP, tức là khoảng 14,4%/năm, trong đó nông
sản xuất khẩu qua chế biến đạt kim ngạch 6-7 tỷ USD vào năm 2010, lơng
thực bình quân 4-5 triệu tấn/năm, khoáng sản đạt kim ngạch khoảng 3 tỷ
USD, sản phẩm công nghiệp chiếm 70-80% tổng kim ngạch xuất khẩu (các
chỉ tiêu này sẽ còn đợc điều chỉnh).
Việc gia tăng xuất khẩu 14,4%/năm là nhiệm vụ khơng đơn giản vì :
- Xuất phát điểm của thời kỳ 2001-2010 cao hơn nhiều so với thời kỳ
1991-2000 (13,5 tỷ USD so với 2,4 tỷ USD). Với những hạn chế còn tồn tại
trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là những hạn chế mang tính cơ cấu, thì việc
gia tăng giá trị tuyệt đối ở mức trên 2 tỷ USD/năm đòi hỏi sự nỗ lực cao độ
trong công tác xuất nhập khẩu.
- Trong 10 năm qua, khối doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngồi đã
đóng góp một phần khá lớn cho tăng trởng xuất khẩu, mở ra những mặt hàng


mới và khai phá các thị trờng mới. Kể từ năm 1998, đầu t nớc ngồi vào nớc
ta có chiều hớng chững lại và giảm dần. Hiện nay cha rõ khả năng có chặn
đứng đợc chiều hớng này khơng. Nếu chiều hớng đó cịn tiếp diễn thì có thể

ảnh hởng đáng kể tới tốc độ tăng trởng xuất khẩu, chí ít là trong những năm
đầu của thời kỳ 2001-2010.
Tuy nhiên, yêu cầu tăng nhanh quy mô và tốc độ xuất khẩu là một
nhiệm vụ cấp thiết đối với nền kinh tế nớc ta. Một mặt nó khắc phục nguy cơ
tụt hậu không chỉ đối với các nớc phát triển trên thế giới mà ngay cả với các
nớc trong khu vực. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu của Malaysia cao hơn ta
khoảng 6 lần, Thái Lan hơn ta khoảng 4,5 lần. Nếu ta phấn đấu đến năm
2010 đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 60 tỷ USD và với mức tăng trởng nh
hiện nay của hai nớc thì khoảng cách đó có thể rút ngắn xuống bằng 1/3
Malaysia và 1/2 Thái Lan. Mặt khác, nó cịn tạo ra nguồn ngoại tệ cân đối
nhập khẩu, tăng tích luỹ ngoại tệ, tiếp cận nền khoa học công nghệ cao của
thế giới phục vụ công nghiệp hố, hiện đại hóa đất nớc, tạo cơng ăn việc làm
cho ngời lao động.
Dựa trên kinh nghiệm 10 năm qua kết hợp với những dự báo về sản
xuất và thị trờng trong 10 năm tới và trên cơ sở phát huy nội lực, có tính đến
sự thay đổi có tính đột biến, Bộ Thơng mại đề xuất phơng án phấn đấu tăng
trởng xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 nh sau :
1. Về xuất khẩu :
a) Xuất khẩu hàng hoá :
- Tốc độ tăng trởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm,
trong đó thời kỳ 2001-2005 tăng 16%/năm, thời kỳ 2006-2010 tăng
14%/năm.
- Giá trị tăng từ khoảng 13,5 tỷ USD năm 2000 lên 28,4 tỷ USD vào
năm 2005 và 54,6 tỷ USD vào năm 2010, gấp hơn 4 lần năm 2000.
b) Xuất khẩu dịch vụ :
- Tốc độ tăng trởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm.


- Giá trị tăng từ khoảng 2 tỷ USD năm 2000 lên 4 tỷ USD vào năm
2005 và 8,1 tỷ USD vào năm 2010, tức là gấp hơn 4 lần;

c) Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ khoảng
15,5 tỷ USD vào năm 2000 lên 32,4 tỷ USD vào năm 2005 và 62,7 tỷ USD
vào năm 2010 (hơn 4 lần);
2. Về nhập khẩu :
Do nớc ta cịn đang trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố,
trình độ phát triển kinh tế cịn thấp nên cha thể xố bỏ đợc ngay tình trạng
nhập siêu. Tuy nhiên cần phải rất tiết kiệm ngoại tệ trong nhập khẩu, chỉ
nhập khẩu những hàng hóa cần thiết, máy móc thiết bị công nghệ mới và sản
xuất ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, sản xuất để giảm thiểu
nhu cầu nhập khẩu, phải giữ đợc thế chủ động trong nhập khẩu, kiềm chế đợc nhập siêu và giảm dần tỷ lệ nhập siêu tiến tới sớm cân bằng xuất nhập và
xuất siêu. Theo hớng đó dự kiến nhập khẩu nh sau:
a) Nhập khẩu hàng hoá :
- Tốc độ tăng trởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 14%/năm,
trong đó thời kỳ 2001-2005 là 15% và thời kỳ 2006-2010 là 13%.
- Giá trị kim ngạch tăng từ khoảng 14,5 tỷ USD năm 2000 lên 29,2 tỷ
USD năm 2005 (cả thời kỳ 2001-2005 nhập khẩu 112 tỷ USD) và 53,7 tỷ
USD vào năm 2010.

b) Nhập khẩu dịch vụ :
- Tốc độ tăng trởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 11%/năm.
- Giá trị tăng từ khoảng 1,2 tỷ USD năm 2000 lên 2,02 tỷ USD năm
2005 và 3,4 tỷ USD năm 2010.
c) Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ :
Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ khoảng 15,7
tỷ USD năm 2000 lên 31,2 tỷ USD năm 2005 và 57,14 tỷ USD năm 2010.


Nh vậy, trong 5 năm đầu (2001-2005) nhập siêu về hàng hóa giảm
dần, mỗi năm bình qn 900 triệu USD và cả thời kỳ là 4,73 tỷ USD; 5 năm
sau (2006-2010) nhập siêu tiếp tục giảm. Đến năm 2008 cân bằng xuất nhập

hàng hóa phấn đấu xuất siêu khoảng 1 tỷ USD vào năm 2010. Nếu tính cả
xuất khẩu dịch vụ thì tới năm 2002 đã cân bằng xuất nhập và bắt đầu xuất
siêu, năm 2010 xuất siêu 5,5 tỷ USD.
Tuy nhiên, nh trên đã nói, tình hình kinh tế khu vực và thế giới còn ẩn
chứa nhiều nhân tố khó lờng; do đó cần đề phịng những tình huống bất trắc
nảy sinh.
B. VỀ CƠ CẤU HÀNG HOÁ XUẤT - NHẬP KHẨU VÀ CƠ CẤU DỊCH VỤ

1. Cơ cấu hàng hố xuất khẩu :
Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa trong 10 năm tới cần đợc chuyển dịch theo
hớng chủ yếu sau :
- Trớc mắt huy động mọi nguồn lực hiện có thể có để đẩy mạnh xuất
khẩu, tạo cơng ăn việc làm, thu ngoại tệ;
- Đồng thời cần chủ động gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và
chế tạo với giá trị gia tăng ngày càng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lợng cơng nghệ và trí thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô;
- Mặt hàng, chất lợng, mẫu mã cần đáp ứng nhu cầu của từng thị trờng;
- Rất chú trọng việc gia tăng các hoạt động dịch vụ.
Tiếc rằng, các mặt hàng xuất nhập khẩu mới đợc đề cập chủ yếu ở
trạng thái "tĩnh", cha thể dự báo đợc những mặt hàng sẽ xuất hiện trong tơng
lai do thị trờng mách bảo và năng lực sản xuất của ta.
Theo các hớng nói trên, chính sách các nhóm hàng có thể hình dung
nh sau:
1.1 Nhóm nguyên nhiên liệu :


Hiện nay nhóm này, với hai mặt hàng chính là dầu thô và than đá,
đang chiếm khoảng trên 20% kim ngạch xuất khẩu của nớc ta. Sau khi nhà
máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động, lợng dầu thô xuất khẩu sẽ giảm
dần. Dự kiến vào năm 2005 lợng dầu thơ xuất khẩu chỉ cịn khoảng gần 12
triệu tấn (hiện nay là 16 triệu tấn). Tới năm 2010 có hai phơng án, tuỳ thuộc

vào lợng khai thác:
- Nếu khai thác 14-16 triệu tấn thì sẽ sử dụng trong nớc khoảng 12
triệu tấn, xuất khẩu 2-4 triệu tấn;
- Nếu khai thác 20 triệu tấn thì có khả năng xuất khẩu khoảng 8 triệu
tấn.
Dù theo phơng án nào thì kim ngạch dầu thô cũng sẽ giảm đáng kể
vào năm 2010 (theo phơng án 1 thì tỷ trọng dầu thơ trong giá trị xuất khẩu
dự kiến sẽ chỉ còn dới 1% so với 22% hiện nay; theo phơng án 2 thì tỷ lệ đó
sẽ cịn khoảng 3%). Thị trờng xuất khẩu chính vẫn là Ơ-xtrây-lia, Singapore,
Nhật Bản và Trung Quốc, có thể thêm Hoa Kỳ.
Việc giảm xuất khẩu dầu thô sẽ đi đôi với việc giảm nhập khẩu sản
phẩm xăng dầu từ nớc ngoài. Dự kiến đến năm 2010 sản xuất trong nớc sẽ
đáp ứng đợc gần 80% nhu cầu về sản phẩm dầu và khí, tức là khoảng 13
triệu tấn sản phẩm/năm, trị giá trên 3 tỷ USD. Nhập khẩu xăng dầu vào năm
2010 chỉ còn khoảng 4 triệu tấn, giảm 50% so với 8 triệu tấn hiện nay; nếu
tính theo thời giá hiện nay thì sẽ giảm khoảng 850 - 900 triệu USD.
Về than đá, dự kiến nhu cầu nội địa sẽ tăng đáng kể do xây các nhà
máy nhiệt điện mới nên dù sản lợng có thể lên tới 15 triệu tấn/năm (hiện nay
là 10-12 triệu tấn/năm) xuất khẩu cũng sẽ chỉ dao động ở mức 4 triệu
tấn/năm trong 10 năm tới, mang lại kim ngạch mỗi năm khoảng 120-150
triệu USD. Nhìn chung, giá xuất khẩu than khó có khả năng tăng đột biến do
nguồn cung trên thị trờng thế giới tơng đối dồi dào, vả lại vì lý do mơi trờng
nên cầu có xu hớng giảm. Nhiệm vụ chủ yếu trong những năm tới là cố gắng
duy trì những thị trờng đã có nh Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Âu .. và tăng cờng thâm nhập vào thị trờng Thái Lan, Hàn Quốc .. .
Khả năng tăng xuất khẩu các loại khoáng sản khác để bù vào thiếu
hụt của dầu thô là rất hạn chế. Cho đến năm 2010, quặng apatit khai thác ra
chỉ có thể đáp ứng một phần cho nhu cầu sản xuất phân bón, cha có khả
năng tham gia xuất khẩu. Khả năng sản xuất và xuất khẩu alumin sẽ tuỳ



thuộc vào việc triển khai dự án (nếu có thì chỉ từ sau 2005). Quặng sắt khó
có khả năng xuất khẩu với số lợng lớn bởi nhu cầu trong nớc sẽ tăng mạnh,
khả năng khai thác quặng Thạch Khê còn cha rõ nét. Đất hiếm tuy có nhng
trữ lợng thơng mại khơng nhiều, việc xuất khẩu lại rất khó khăn do công
nghệ chế biến phức tạp, cung cầu thế giới đã ổn định. Các loại quặng khác
trữ lợng đều không đáng kể.
Nh vậy, tới năm 2005, nhóm nguyên nhiên liệu có khả năng chỉ cịn
đóng góp đợc khoảng 9% kim ngạch xuất khẩu (2,5 tỷ USD) so với trên 20%
hiện nay ; đến năm 2010, tỷ trọng của nhóm này sẽ giảm xuống còn cha đầy
1% (dới 500 triệu USD) hoặc 3,5% (khoảng 1,75 tỷ USD), tuỳ theo phơng
án khai thác dầu thơ. Vì vậy, việc tìm ra các mặt hàng mới để thay thế là
một thách thức lớn đối với việc gia tăng xuất khẩu.
1.2 Nhóm hàng nơng, lâm, thủy sản :
Hiện nay nhóm này đang chiếm gần 25% kim ngạch xuất khẩu với
những mặt hàng chủ yếu là gạo, cà phê, cao su, chè, rau quả, thuỷ sản, hạt
tiêu và nhân điều (trừ mặt hàng chè, tất cả các mặt hàng khác đều đạt kim
ngạch trên 100 triệu USD/năm). Do sản xuất nông nghiệp phải chịu những
hạn chế mang tính cơ cấu (nh diện tích có hạn, khả năng khai thác và đánh
bắt có hạn ...) và thời tiết nên theo dự thảo Chiến lợc chung, tốc độ tăng trởng của nhóm này sẽ chỉ ở mức 4%/năm trong tồn kỳ 2001-2010. Bên cạnh
đó, nhu cầu của thị trờng thế giới cũng có hạn, giá cả lại khơng ổn định. Vì
vậy, dù kim ngạch tuyệt đối vẫn tăng nhng tỷ trọng của nhóm sẽ giảm dần
xuống cịn 22% (tơng đơng 5,85 tỷ USD) vào năm 2005 và 17,2% (tơng đơng 8-8,6 tỷ USD) vào năm 2010.
Hớng phát triển chủ đạo của nhóm hàng này trong 10 năm tới là
chuyển dịch cơ cấu toàn lĩnh vực, trong mỗi ngành, thậm chí trong từng loại
sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lợng và giá trị gia tăng. Để đạt mục tiêu
này, cần có sự đầu t thích đáng vào khâu giống và cơng nghệ sau thu hoạch,
kể cả đóng gói, bảo quản, vận chuyển... để tạo ra những đột phá về năng suất
và chất lợng sản phẩm.
Hạt nhân tăng trởng của nhóm sẽ là thủy sản bởi tiềm năng khai thác
và ni trồng cịn nhiều, nhu cầu thị trờng thế giới tăng khá ổn định, thuế

suất thấp. Năm 1985 xuất khẩu thuỷ sản thế giới mới đạt 17,2 tỷ USD, tới
năm 1995 đã đạt 52 tỷ USD, tức là tăng bình quân mỗi năm trên 13%. Điều
này liên quan tới xu thế tiêu dùng của thế giới là giảm tiêu thụ thịt, tăng tiêu


thụ thuỷ sản. Với sản lợng dự kiến đạt 3,7 triệu tấn thì kim ngạch xuất khẩu
thuỷ sản của ta sẽ đạt 2,5 tỷ USD vào năm 2005 và 3,2-3,5 tỷ USD vào năm
2010, chiếm 40% tổng kim ngạch của nhóm nơng lâm hải sản. Thị trờng
chính sẽ là Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Trung quốc.... Để bảo đảm tốc độ tăng
trởng ổn định cho mặt hàng này, cần tiếp tục chú trọng đầu t để phát triển
đánh bắt xa bờ và nuôi trồng, chuyển từ quảng canh sang thâm canh, phát
triển những mặt hàng có kim ngạch cao nh tơm, nhuyễn thể. Cơng nghệ sau
thu hoạch cũng cần có sự quan tâm thoả đáng để nâng cao chất lợng, giá trị
gia tăng và vệ sinh thực phẩm của sản phẩm xuất khẩu.
Về gạo, do nhu cầu thế giới tơng đối ổn định, khoảng trên 20 triệu
tấn/năm, nhiều nớc nhập khẩu nay chú trọng an ninh lơng thực, thâm canh
tăng năng suất cây trồng, gia tăng bảo hộ, giảm nhập khẩu. Trong hồn cảnh
đó, dự kiến trong suốt thời kỳ 2001-2010 nhiều lắm ta sẽ chỉ có thể xuất
khẩu đợc khoảng 4-4,5 triệu tấn/năm, thu về mỗi năm khoảng trên 1 tỷ USD.
Để nâng cao hơn nữa kim ngạch, cần đầu t để cải thiện cơ cấu và chất lợng
gạo xuất khẩu; khai thác các thị trờng mới (nh Trung Đông, châu Phi, Nam
Mỹ) và ổn định các thị trờng đã có nh Indonesia, Philippines ... thơng qua
các hợp đồng G-to-G, nghiên cứu khả năng phối hợp với Thái Lan để điều
tiết nguồn cung, ổn định giá cả thị trờng, tăng hiệu quả xuất khẩu gạo.
Về nhân điều cịn có thể tăng kim ngạch từ 115 triệu USD năm 2000
lên tới khoảng 400 triệu USD hay cao hơn vào năm 2010 vì nhu cầu cịn lớn,
liên tục tăng (một số dự báo cho thấy nhu cầu sẽ tăng bình quân 7%/năm
trong 10 năm tới và sẽ đạt mức 160-200.000 tấn, giá xuất khẩu cũng tăng, từ
3.799 USD/tấn năm 1994 lên 5.984USD/tấn), vả lại tiềm năng của nớc ta
còn lớn. Thị trờng chủ yếu là Mỹ, EU, Ô-xtrây-lia, Trung Quốc.

Hạt tiêu xuất khẩu trên thế giới khoảng 200.000 tấn/năm, giá cả dao
động lớn. Ta có khả năng mở rộng sản xuất, gia tăng sản lợng, từ đó có khả
năng tăng lên thành 230-250 triệu USD so với 160 triệu USD hiện nay. Thị
trờng chủ yếu là châu Âu, Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Trung Đông.
Về các loại rau, hoa và quả khác, Thủ tớng Chính phủ đã có Quyết
định số 182/1999/QĐ-TTg ngày 03/9/1999 phê duyệt đề án phát triển đến
năm 2010, theo đó kim ngạch xuất khẩu rau, hoa và quả sẽ đợc đa lên
khoảng 1,2 tỷ USD với thị trờng là Nhật, Nga, Trung Quốc, châu Âu. Nếu
có quy hoạch các vùng chuyên canh và đầu t thoả đáng vào các khâu nh
giống, kỹ thuật trồng và chăm sóc, cơng nghệ sau thu hoạch ... thì thậm chí
có thể thực hiện vợt mục tiêu trên, đạt kim ngạch 1,6 tỷ USD.


Về cà-phê, do sản lợng và giá cả phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời
tiết nên rất khó dự báo chuẩn xác về khối lợng và giá trị xuất khẩu trong
những năm tới. FAO dự báo tới năm 2005, sản lợng thế giới sẽ khoảng 7,3
triệu tấn so với 6,3-6,6 triệu tấn hiện nay. Nếu thuận lợi, xuất khẩu có thể đạt
750 ngàn tấn vào năm 2010 với kim ngạch khoảng 850 triệu USD, đa Việt
nam vợt qua Colombia để trở thành nớc xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế
giới. Để đạt giá trị cao, nên chú trọng phát triển cà phê chè (arabica), tự tổ
chức hoặc thu hút đầu t nớc ngoài vào lĩnh vực chế biến cà phê rang xay và
cà phê hoà tan. Thị trờng xuất khẩu chính vẫn là EU, Hoa Kỳ, Singapore và
Nhật Bản. Nói chung, xuất khẩu cà phê sẽ khơng gặp khó khăn lớn về thị trờng nhng về giá cả sẽ khó ổn định.
Với hai mặt hàng quan trọng cịn lại là cao su và chè, Chính phủ đều
đã có đề án phát triển. Tuy nhiên, cần tính lại vấn đề phát triển cao su vì nhu
cầu của thế giới tăng chậm, chỉ trên 2%/năm, năm 2000 khoảng 7 triệu tấn,
giá cả có xu hớng xuống thấp. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu cao su có thể
đạt 500 triệu USD vào năm 2010. Nhu cầu chè trên thế giới tiếp tục tăng,
hiện nay đạt mức 1,3 triệu tấn/năm; ta có tiềm năng phát triển, có thể đa kim
ngạch chè lên mức 200 triệu USD, tức là gấp 4 lần hiện nay, trong đó cần nỗ

lực tăng tỷ trọng chè chất lợng cao cho các thị trờng khó tính nh Nhật Bản,
Đài Loan, Trung Đông đi đôi với việc tăng cờng hợp tác đóng gói tại Nga để
đẩy mạnh tiêu thụ trên thị trờng này.
Về thịt thì hiện nay sản lợng của nớc ta còn rất nhỏ bé (chỉ bằng 0,7%
của thế giới), chất lợng còn xa so với nhu cầu trên thị trờng thế giới. Muốn
gia tăng xuất khẩu sản phẩm chăn ni thì khâu then chốt là đầu t vào khâu
nâng cao chất lợng vật nuôi phù hợp với yêu cầu của thị trờng thế giới, cải
thiện mạnh mẽ công nghệ chế biến, vệ sinh thực phẩm, phơng tiện vận
chuyển, đổi mới phơng thức chăn nuôi từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn,
hiện đại. Thị trờng định hớng trớc mắt là Hongkong, Nga, về lâu dài là
Singapore và Nhật Bản.
Ngồi ra, một loạt sản phẩm cịn có thể phát triển để hoặc thay thế
nhập khẩu hoặc góp phần xuất khẩu nh cây họ đậu, cây có dầu, tơ tằm,
bơng... .
Đối với tồn bộ nhóm nơng thuỷ sản cần rất chú trọng khâu cải tạo
giống cây trồng vật nuôi, chế biến, bảo quản, vệ sinh thực phẩm, chuyên


chở, đóng gói, phân phối để có thể đa thẳng tới khâu tiêu dùng, từ đó nâng
cao giá trị gia tăng.
Nhìn chung lại, kim ngạch của nhóm ngun nhiên liệu và nông lâm
hải sản tổng cộng sẽ đạt từ 10 đến 10,35 tỷ USD vào năm 2010, chiếm
khoảng 20-21% kim ngạch xuất khẩu so với trên 40% hiện nay theo hớng
gia tăng chất lợng và giá trị gia tăng. Phần còn lại phải là các mặt hàng chế
biến và chế tạo. Đây là bài toán chủ yếu cho hoạt động xuất nhập khẩu trong
thời gian 10 năm tới.
1.3 Sản phẩm chế biến và chế tạo :
Hiện nay kim ngạch của nhóm này đã đạt trên 4 tỷ USD, tức là trên
30% kim ngạch xuất khẩu. Mục tiêu phấn đấu vào năm 2010 là 20-21 tỷ
USD, tăng hơn 5 lần so với hiện nay và chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất

khẩu.
Hạt nhân của nhóm, cho tới năm 2010, vẫn sẽ là hai mặt hàng dệt
may và giầy dép, là những lĩnh vực có thể thu hút nhiều lao động. Kim
ngạch của mỗi mặt hàng phải đạt khoảng 7-7,5 tỷ USD. Nh vậy, dệt may sẽ
phải tăng bình quân 14%/năm, giày dép tăng bình quân 15-16%/năm. Nay
đã ký đợc Hiệp định Thơng mại Việt Nam - Hoa kỳ thì mục tiêu tăng trởng
trên là khả thi. Tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục mở thêm thị trờng Trung Đông và
Đông Âu. Sau các thoả thuận đạt đợc với Hoa Kỳ và EU, Trung Quốc sẽ trở
thành thành viên của WTO; khả năng cạnh tranh của hàng hố Trung Quốc,
trong đó có dệt may và giày dép, vốn đã rất mạnh, sẽ đợc nâng lên do đợc hởng những u đãi mới trên các thị trờng rộng lớn nh Hoa Kỳ và EU, gây khó
khăn khơng nhỏ cho hàng hố của ta.
Để khắc phục khó khăn, đẩy mạnh xuất khẩu, hớng phát triển cơ bản
của hai ngành dệt may và giày dép trong 10 năm tới là gia tăng nỗ lực thâm
nhập các thị trờng mới, đặc biệt là thị trờng Mỹ, Trung Đông và châu Đại dơng ; ổn định và tăng thị phần trên các thị trờng quen thuộc nh EU, Nhật
Bản, đặc biệt là Nhật Bản bởi đây là thị trờng phi quota; chuyển dần từ hình
thức gia cơng là chính sang nội địa hoá trên cơ sở tăng cờng đầu t sản xuất
nguyên phụ liệu đầu vào, tạo nhãn hiệu có uy tín; chuyển mạnh sang bán
FOB ; thu hút mạnh đầu t nớc ngoài, nhất là đầu t từ EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn
quốc, Đài loan... để tăng cờng năng lực thâm nhập trở lại các thị trờng này
và đi vào các thị trờng khác. Chính sách thơng mại của Nhà nớc, mà cụ thể
là chính sách thuế, chính sách thị trờng, cần hỗ trợ đắc lực cho tiến trình này.


Do mục tiêu kim ngạch của tồn nhóm chế biến, chế tạo vào năm
2010 là trên 20 tỷ USD nên ngoài dệt may và giày dép cần nỗ lực tiếp cận
thị trờng quốc tế, dự báo nhu cầu của ngời tiêu dùng để từ đó cố gắng tạo ra
những ngành hàng mới.
Trớc mắt, chủ yếu dựa trên cơ cấu đầu t và thực tiễn xuất khẩu trong
những năm qua cũng nh thị trờng quốc tế, có thể dự báo những mặt hàng nh:
Thủ công mỹ nghệ : Kim ngạch hiện nay đã đạt xấp xỉ 200 triệu

USD. Đây là ngành hàng mà ta còn nhiều tiềm năng, dung lợng thị trờng thế
giới cịn lớn. Nếu có chính sách đúng đắn để khơi dậy tiềm năng thì có thể
nâng kim ngạch lên 800 triệu USD vào năm 2005 và 1,5 tỷ USD vào năm
2010, trong đó hàng gốm sứ chiếm khoảng 60%. Thị trờng định hớng là EU,
Nhật Bản và Hoa Kỳ. Các thị trờng nh Trung Đông, châu Đại dơng cũng là
thị trờng tiềm tàng, cần nỗ lực phát triển (Bộ Thơng mại đã trình Thủ tớng
Chính phủ đề án riêng về mặt hàng này).
Thực phẩm chế biến : Kim ngạch hiện nay mới đạt 100 triệu USD,
tập trung chủ yếu vào những mặt hàng khơng địi hỏi nhiều về công nghệ nh
bánh kẹo, sữa, mỳ ăn liền, phở ăn liền, bột ngọt, dầu thực vật ... . Tiềm năng
phát triển của ngành hàng này còn khá lớn bởi ở một số nớc có nhu cầu, cha
kể cộng đồng ngời Việt ở nớc ngồi khá đơng. Dự báo tới năm 2005 kim
ngạch xuất khẩu có khả năng vợt 200 triệu USD và tới năm 2010 đạt 700
triệu USD với thị trờng tiêu thụ chủ yếu là Nga, Đông Âu, EU, Ô-xtrây-lia
và Hoa Kỳ. Trong nhóm này, cần hết sức chú trọng mặt hàng dầu thực vật
bởi nớc ta là nớc có tiềm năng về cây có dầu (dừa, đậu nành, vừng, lạc ...).
Nhà nớc cần quy hoạch lại các vùng trồng cây có dầu để tập trung nguồn
nguyên liệu đủ dùng cho các nhà máy chế biến, hạn chế dần lợng dầu
nguyên liệu nhập khẩu. Trung Quốc và Trung Đông là thị trờng xuất khẩu
đầy tiềm năng đối với mặt hàng này.
Sản phẩm gỗ : Với thế mạnh về nhân cơng và tay nghề, đây là ngành
có tiềm năng phát triển ở nớc ta. Ngành cịn có một thuận lợi nữa là nhu cầu
thế giới tăng khá ổn định (bình quân mỗi năm tăng khoảng 7-8% trong suốt
thời gian từ 1994 đến 1998). Sau khi chuyển hớng sang sử dụng nguyên liệu
nhập, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của ta (không kể gỗ mỹ nghệ) đang
hồi phục dần. Dự kiến đến năm 2005 có thể đạt 600 triệu USD và tới năm
2010 đạt 1,2 tỷ USD. Để phát triển ngành này, cần có đầu t thoả đáng vào


khâu trồng rừng và đơn giản hoá thủ tục trong xuất khẩu sản phẩm gỗ, nhất

là sản phẩm gỗ rừng tự nhiên.
Hoá phẩm tiêu dùng : Đây là ngành hàng mới xuất hiện trong vài
năm gần đây với hạt nhân là bột giặt, chất tẩy rửa, mỹ phẩm ... . Kim ngạch
hàng năm đã đạt xấp xỉ 30 triệu USD. Thị trờng tiêu thụ chính là Trung
Quốc, Campuchia, I-rắc và một số nớc đang phát triển. Một số lợng nhỏ đã
đợc xuất sang các nớc ASEAN và EU. Ta hoàn tồn có khả năng phát triển
xuất khẩu những mặt hàng này. Mục tiêu kim ngạch vào năm 2005 là 200
triệu USD, vào năm 2010 là 600 triệu USD. Thị trờng chính trong thời kỳ
2001-2005 vẫn sẽ là Trung Quốc, Campuchia, các nớc ASEAN và một số nớc đang phát triển; sang thời kỳ 2006-2010 cố gắng len vào các thị trờng
khác nh EU, Nhật Bản, Nga, Hoa Kỳ.
Sản phẩm cơ khí, điện : Đây sẽ là ngành hàng hồn tồn mới trong
10 năm tới. Mặc dù kim ngạch hiện nay mới đạt trên dới 10 triệu USD nhng
hồn tồn có khả năng tăng kim ngạch lên 300 triệu USD vào năm 2005 và 1
tỷ USD vào năm 2010. Nên có chính sách thu hút đầu t nớc ngồi hớng về
xuất khẩu. Trong lĩnh vực này đang có những dấu hiệu khá tích cực (ví dụ,
cơng ty Cadivi đã bắt đầu xuất khẩu cáp điện ra nớc ngoài với khối lợng lớn;
14 dự án sản xuất xe đạp 100% vốn Đài Loan đã đợc cấp giấy phép, 16 dự
án nữa đang chờ cấp giấy phép, tổng công suất khoảng 6 triệu xe/năm, xuất
khẩu 80%; quạt điện, máy xay xát, động cơ ... cũng đang tích cực tìm đờng
xuất khẩu ra nớc ngoài). Thị trờng định hớng đối với xe đạp là EU và Hoa
Kỳ, với các sản phẩm khác là các nớc ASEAN, Trung Đông và châu Phi.
Sản phẩm nhựa : Kết quả xuất khẩu sản phẩm nhựa trong những năm
gần đây là đáng khích lệ. Từ chỗ đáp ứng chủ yếu nhu cầu trong nớc, nớc ta
đã bắt đầu xuất khẩu sang Campuchia, Lào, Trung Quốc và các nớc Nam Á
nh Ấn Độ, Sri Lanka. Mặt hàng chủ yếu là bạt nhựa và đồ nhựa gia dụng.
Trong những năm tới, cần có đầu t thoả đáng vào khâu chất lợng và mẫu mã
để mở rộng thị phần trên các thị trờng hiện có, tăng cờng thâm nhập các thị
trờng mới nh Nhật Bản, EU và Hoa Kỳ. Về sản phẩm, bên cạnh đồ nhựa gia
dụng cần chú ý phát triển nhựa công nghiệp và đồ chơi bằng nhựa. Nếu làm
đợc những việc này, kim ngạch có thể đạt 200 triệu USD vào năm 2005 và

600 triệu USD vào năm 2010.
Nh vậy, bên cạnh dệt may và giày dép, trong 10 năm tới đây cần chú ý
phát triển những ngành kết hợp giữa lao động giản đơn với cơng nghệ trung
bình mà cụ thể là thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ, hoá


phẩm tiêu dùng, sản phẩm nhựa và sản phẩm cơ khí - điện; phấn đấu đa kim
ngạch của nhóm hàng mới này lên 4,5-5 tỷ USD hoặc hơn vào năm 2010.
Có thể nói đây là khâu đột phá của xuất khẩu Việt nam trong những năm trớc mắt (2001-2005).
1.4 Nhóm hàng vật liệu xây dựng
Nớc ta có nguồn nguyên liệu dồi dào để sản xuất vật liệu xây dựng
không những có thể cung cấp đủ cho nhu cầu trong nớc mà cịn có khả năng
xuất khẩu lớn.
Ngành sản xuất xi măng là ngành công nghiệp phát triển mạnh trong
mấy năm gần đây, sản lợng hàng năm (+ 13 triệu tấn) đã cung ứng đủ cho
nhu cầu trong nớc. Theo chiến lợc phát triển sản xuất xi măng thì các dự án
phát triển xi măng trong vài năm tới có khả năng d thừa hàng năm khoảng từ
2-3 triệu tấn để xuất khẩu (năm 2001 có thể xuất khẩu + 300.000 ngàn tấn).
Tuy nhiên, do các nhà máy xi măng mới đầu t, khấu hao lớn nên giá thành
sản xuất còn cao, khả năng cạnh tranh yếu hơn so với xi măng các nớc trong
khu vực, do đó khâu then chốt đối với xi măng là hạ giá thành.
Ngành công nghiệp sản xuất gạch ốp lát và sứ vệ sinh trong nớc tuy
mới ra đời nhng đã sớm hoà nhập vào môi trờng cạnh tranh với sản phẩm
cùng loại của các nớc trong khu vực. Về mặt công nghệ các nhà máy của
Việt Nam nhập công nghệ tiên tiến nên chất lợng sản phẩm đạt tiêu chuẩn
ISO, hồn tồn có khả năng cạnh tranh với hàng ngoại. Mặt khác, đây là
ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sử dụng tới 80-87% nguyên
liệu (đất sét, fensfat, thạch cao, bột màu, gas ...) trong nớc. Sứ vệ sinh của
Việt Nam đã bắt đầu có mặt trên các thị trờng Nhật bản, Nga, Myanmar,
Bangladesh, Pháp, Ucraina. Đây là những mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu

lớn trong tơng lai.
Do có nguồn nguyên liệu cát tốt để sản xuất kính, theo kế hoạch thì từ
nay đến năm 2010 ngành cơng nghiệp kính sẽ trở thành ngành công nghiệp
vật liệu xây dựng mũi nhọn. Dự tính năm 2010 năng lực sản xuất đạt 60
triệu m2, đáp ứng đủ cho nhu cầu trong nớc và xuất khẩu. Hiện nay kính của
Việt Nam sản xuất đã đợc xuất khẩu sang Campuchia; trong tơng lai cần mở
rộng thêm thị trờng.
1.5 Sản phẩm hàm lợng công nghệ và chất xám cao :


Đây là ngành hàng mới xuất hiện nhng đã mang lại kim ngạch xuất
khẩu khá lớn, khoảng 700 triệu USD vào năm 2000. Hạt nhân là hàng điện
tử và tin học. Với xu thế phân công lao động theo chiều sâu trên thế giới
hiện nay, ta hồn tồn có khả năng phát triển hơn nữa những mặt hàng này,
trớc mắt là gia cơng rồi tiến tới nội hố dần. Vấn đề cốt lõi là có cơ chế
chính sách khuyến khích, phát triển nguồn nhân lực. Mục tiêu kim ngạch
xuất khẩu đặt ra cho ngành là 2,5 tỷ USD vào năm 2005 (riêng phần mềm
Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trờng dự kiến là 350-500 triệu USD) và 6-7
tỷ USD vào năm 2010 (riêng phần mềm là 1 tỷ USD). Về thị trờng thì nhằm
vào các nớc cơng nghiệp phát triển (phần mềm) và cả các nớc ĐPT (phần
cứng). Cần coi đây là khâu đột phá trong 5 năm cuối của kỳ 2001-2010.
2. Cơ cấu dịch vụ xuất khẩu :
Lâu nay ở ta ít chú trọng tới xuất khẩu dịch vụ, thậm chí khơng có số
liệu thống kê một cách có hệ thống. Tuy nhiên qua tổng hợp số liệu của các
ngành, có thể sơ bộ ớc tính thơng mại dịch vụ hai chiều của Việt Nam năm
2000 đạt 3,2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 2,0 tỷ USD và nhập khẩu đạt
1,2 tỷ USD.
Các ngành dịch vụ thu ngoại tệ bao gồm nhiều lĩnh vực (theo WTO
thì có tới 155 loại hình), bản này mới chỉ có thể đề cập tới các loại hình dịch
vụ nh du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải hàng khơng, bu chính viễn thông

và dịch vụ ngân hàng.
2.1 Xuất khẩu lao động :
Trong nhiều năm qua xuất khẩu lao động là ngành thu ngoại tệ quan
trọng. Bình quân giai đoạn 1996-2000, mỗi năm nớc ta đa ra nớc ngoài
khoảng 2 vạn lao động với thời hạn hợp đồng từ 3-5 năm, riêng năm 2000
dự kiến là 3 vạn lao động. Hiện nay số ngời Việt Nam đang lao động tại nớc
ngoài vào khoảng 9 vạn ngời. Với thu nhập bình quân đầu ngời khoảng
5.000USD/năm, ớc tính kim ngạch xuất khẩu lao động năm 2000 sẽ đạt 450
triệu USD.
Theo Bộ Lao động Thơng binh và Xã hội thì mục tiêu phấn đấu năm
2005 là xuất khẩu 150-200 ngàn lao động và đến năm 2010 là 1 triệu lao
động. Nếu thực hiện đợc mục tiêu này, kim ngạch dự kiến sẽ đạt khoảng 1,5
tỷ USD vào năm 2005 và 4,5-6 tỷ USD năm 2010.


2.2 Du lịch :
Du lịch là một ngành dịch vụ có ý nghĩa kinh tế xã hội quan trọng.
Trong những năm qua, ngành du lịch đã đạt đợc nhiều bớc tiến đáng ghi
nhận. Tuy nhiên tiềm năng của ngành còn rất lớn nếu biết khai thác và phát
huy tốt những thế mạnh sẵn có. Theo Tổng cục Du lịch, dự kiến năm 2000
sẽ có khoảng 2 triệu khách du lịch quốc tế tới Việt Nam với doanh thu ngoại
tệ khoảng 500 triệu USD.
Theo chiến lợc phát triển của ngành thì tới năm 2005 sẽ phấn đấu thu
hút đợc 3 triệu khách quốc tế với doanh thu xấp xỉ 1 tỷ USD, năm 2010 thu
hút 4,5 triệu khách đạt 1,6 tỷ USD.
2.3 Vận tải biển và dịch vụ cảng, giao nhận :
Kim ngạch xuất khẩu trong lĩnh vực vận tải biển năm 2000 mới chỉ
đạt xấp xỉ 20 triệu USD. Hiện nay đa số các doanh nghiệp của ta lựa chọn
điều kiện giao hàng là CIF hoặc C&F đối với hàng nhập khẩu và FOB đối
với hàng xuất khẩu. Do vậy hàng năm ta phải chi một lợng ngoại tệ khá lớn

để nhập khẩu dịch vụ vận tải của nớc ngoài, đồng thời lại để tuột mất cơ hội
thu ngoại tệ khi xuất khẩu. Nguyên nhân khách quan một phần là do tập
quán của doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng, nhng ngun nhân chính vẫn là
nớc ta cha có một đội tàu đủ mạnh, hoạt động rộng trên nhiều tuyến và cớc
phí cha cạnh tranh. Vì vậy trong thời gian tới cần tăng cờng đầu t phát triển
hệ thống cảng biển, đi đôi với việc gia tăng đội tàu, tận dụng thế mạnh về vị
trí địa lý, hạ giá thành vận chuyển để nâng cao kim ngạch xuất khẩu, giảm
kim ngạch nhập khẩu tiết kiệm ngoại tệ cho đất nớc. Nếu cớc phí vận tải chỉ
chiếm 1% trong tổng kim ngạch hàng hóa Việt Nam xuất khẩu và ngành
dịch vụ vận tải nớc ta đảm đơng đợc thì kim ngạch xuất khẩu của ngành vận
tải biển đã là trên dới 250 triệu USD năm 2005 và 500 triệu USD năm 2010.
2.4 Các ngành dịch vụ khác (ngân hàng, vận tải hàng khơng, bu
chính viễn thơng, xây dựng, y tế, giáo dục ...) :
Hiện nay, do các Bộ, ngành còn đang thu thập số liệu về xuất-nhập
khẩu dịch vụ liên quan tới ngành mình nên Bộ Thơng mại cha tổng hợp đợc
số liệu chính xác. Tuy nhiên, có thể sơ bộ ớc tính kim ngạch xuất khẩu của
nhóm này sẽ đạt xấp xỉ 1 tỷ USD năm 2000 trong đó chiếm tỷ trọng lớn là
dịch vụ ngân hàng (thanh toán quốc tế, chuyển tiền, kiều hối), bu chính viễn
thơng và vận tải hàng khơng. Dự kiến kim ngạch của nhóm này sẽ tăng


khoảng 10%/năm thời kỳ 2001-2010, đạt 1,6 tỷ USD năm 2005 và 2,6 tỷ
USD năm 2010.
Có thể hình dung, ngành dịch vụ phát triển nhiều nhất vào thời kỳ
2001-2010 sẽ là xuất khẩu lao động, du lịch, bu chính viễn thông, vận tải và
ngân hàng. Định hớng phát triển các ngành cụ thể đợc tóm tắt qua bảng dới
đây :
Ngành dịch vụ
- Xuất khẩu lao động
- Du lịch

- Một số ngành khác (ngân
hàng, bu chính viễn thơng,
vận tải...)
Tổng kim ngạch XKDV

Kim ngạch 2005
(triệu USD)
1.500
1.000

Kim ngạch 2010
(triệu USD)
4.500
1.600

1.600

2.000-2.500

4.100

8.100-8.600

Tóm lại, tới năm 2010, kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu đợc dự kiến
nh sau :

1. Nguyên nhiên liệu
2. Nông sản, hải sản
3. Chế biến, chế tạo
4. Công nghệ cao

5. Hàng khác
Tổng kim ngạch hàng hoá
Tổng kim ngạch dịch vụ

1.750
8.000-8.600
20.000-21.000
7.000
12.500
48.000-50.000
8.100-8.600

Tỷ trọng (%)
2000
2010
20,1
3-3,5
23,3
16-17
31,4
40-45
5,4
12-14
19,8
23-25
100

3. Cơ cấu hàng hoá nhập khẩu :
Đối với hàng nhập khẩu thì phơng châm chung là :
- u tiên nhập khẩu vật t, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ cơng

nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản
xuất trong nớc, đẩy mạnh xuất khẩu.
- Cố gắng sử dụng vật t, thiết bị mà trong nớc có thể sản xuất đợc để
tiết kiệm ngoại tệ, nâng cao trình độ sản xuất.


- Hạn chế tới mức tối đa có thể đợc việc nhập khẩu hàng tiêu dùng.
- Tập trung vào nhập thiết bị hiện đại từ các nớc có cơng nghệ nguồn
(Mỹ, Nhật, Tây Âu); giảm nhanh tiến tới hạn chế nhập thiết bị công nghệ lạc
hậu hoặc công nghệ trung gian.
Nhu cầu nhập khẩu năm 2010 dự kiến nh sau :

1. Máy móc thiết bị
2. Nguyên nhiên vật liệu
3. Hàng tiêu dùng
Tổng kim ngạch NK

18.000
30.000
2.000
50.000

Tỷ trọng (%)
2000
2010
27
36
69
60
4

4
100
100

Cơ cấu nhập khẩu sẽ chuyển dịch theo hớng tăng tỷ trọng máy, thiết
bị công nghiệp và công nghệ từ 27% năm 2000 lên 36% năm 2010, giảm tỷ
trọng nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu từ 69% năm 2000 xuống 60% năm
2010, giữ nguyên tỷ trọng hàng tiêu dùng ở mức 4% nh hiện nay. Khả năng
này có tính hiện thực vì trong những năm tới ta sẽ giảm nhập khẩu xăng dầu,
một số đồ dùng lâu bền, phân bón và các loại vật liệu xây dựng ..., hàng tiêu
dùng nhập khẩu đang đợc thay thế dần bằng hàng sản xuất trong nớc, nhất là
vào những năm cuối thời kỳ 2001-2010.
Nớc ta còn đang trong q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, trình
độ phát triển kinh tế cịn thấp, do đó cha thể xóa bỏ đợc tình trạng nhập siêu.
Mức nhập siêu cao hay thấp còn tùy thuộc kết quả thực hiện các chính sách
đẩy mạnh xuất khẩu và sử dụng hợp lý các nguồn vốn nhập khẩu. Đồng thời,
cần tính tới nhân tố khi mở cửa thị trờng theo cam kết quốc tế, hàng rào
quan thuế và phi quan thuế sẽ giảm dần do đó hàng nớc ngồi sẽ dễ xâm
nhập thị trờng nớc ta hơn. Do đó ta cần ra sức nâng cao khả năng cạnh tranh
của hàng nội địa, chủ động đi vào thị trờng nớc khác, đổi mới cơ bản phơng
thức quản lý nhập khẩu. Phơng án khả thi là kiềm chế nhập khẩu, giảm dần
tỷ lệ nhập siêu, khống chế nhập siêu hàng năm ở mức không quá 10% kim
ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập và xuất siêu vào cuối thời kỳ
của chiến lợc 2001-2010.
Về thị trờng nhập khẩu cần chuyển dịch theo hớng giảm thiểu tỷ trọng
của thị trờng ASEAN nói riêng, châu Á nói chung xuống cịn khoảng 55%
(hiện nay ASEAN đang chiếm tới 30% kim ngạch nhập khẩu của ta, riêng
Singapore là 17-18%, toàn châu Á chiếm xấp xỉ 80%). Tỷ trọng của các thị



trờng cung ứng công nghệ nguồn nh Nhật, EU, Bắc Mỹ hiện rất thấp (Nhật
khoảng 12%, EU khoảng 10%, Bắc Mỹ cha đầy 4%), do đó cần nâng dần tỷ
trọng của Nhật, EU và Bắc Mỹ lên trên 30% vào năm 2005 và 40% vào năm
2010.
Cần chủ động thay đổi về căn bản phơng thức quản lý nhập khẩu theo
hớng tăng cờng sử dụng các công cụ phi thuế “hợp lệ” nh các hàng rào tiêu
chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, môi trờng ..., hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối,
thuế mùa vụ, thuế chống phá giá, chống trợ cấp, công bố lộ trình rõ ràng cho
việc dỡ bỏ hàng rào bảo hộ, khắc phục triệt để những bất hợp lý trong chính
sách bảo hộ, cân đối lại đối tợng bảo hộ theo hớng trớc hết chú trọng bảo hộ
nông sản. Giảm dần tỷ trọng của thuế nhập khẩu trong cơ cấu nguồn thu
ngân sách. Cải cách biểu thuế và cải cách cơng tác thu thuế để giảm dần, tiến
tới xố bỏ chế độ tính thuế theo giá tối thiểu và tích cực xúc tiến việc xếp
sắp lại các doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, phơng thức quản lý để nâng
cao hiệu quả và sức cạnh tranh của từng ngành hàng.
4. Cơ cấu dịch vụ nhập khẩu :
Các ngành dịch vụ mà ta phải chi trả ngoại tệ chủ yếu là dịch vụ tài
chính (bảo hiểm, kiểm tốn ...), ngân hàng (thanh tốn, chuyển tiền...), bu
chính viễn thơng, vận tải (hàng khơng, đờng thuỷ), th chun gia nớc
ngồi, du lịch, du học ... . Tổng giá trị nhập khẩu dịch vụ năm 2000 ớc tính
vào khoảng 1,2 tỷ USD. Dự kiến nhập khẩu dịch vụ tăng khoảng 10,5%
trong thời kỳ 2001-2010, đạt giá trị 2,02 tỷ USD năm 2005 và 3,4 tỷ USD
năm 2010.
Tuy nhiên, trong việc hoạch định chiến lợc xuất nhập khẩu dịch vụ
thời kỳ 2001-2010 cần tính tới yếu tố hội nhập quốc tế trong đó có hội nhập
về dịch vụ. Nếu Việt Nam gia nhập WTO trong giai đoạn này thì lĩnh vực
dịch vụ cũng sẽ phải từng bớc mở cửa theo những nguyên tắc của Hiệp định
chung về Thơng mại Dịch vụ (GATS), tạo điều kiện cho các nhà cung ứng
dịch vụ nớc ngoài mở rộng hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Điều này
chắc chắn đặt các ngành dịch vụ của ta trớc sự cạnh tranh gay gắt và sẽ ảnh

hởng mạnh tới kim ngạch nhập khẩu dịch vụ của ta.
C. VỀ THỊ TRỜNG XUẤT - NHẬP KHẨU

Một trong những khâu then chốt của Chiến lợc phát triển xuất - nhập
khẩu đến năm 2010 là mở rộng và đa dạng hoá thị trờng. Quan điểm chủ đạo
là :


- Tích cực, chủ động tranh thủ mở rộng thị trờng, nhất là sau khi tham
gia WTO;
- Đa phơng hoá và đa dạng hoá quan hệ với các đối tác, phòng ngừa
chấn động đột ngột;
- Mở rộng tối đa về diện song trọng điểm là các thị trờng có sức mua
lớn, tiếp cận các thị trờng cung ứng công nghệ nguồn;
- Tìm kiếm các thị trờng mới ở Mỹ La-tinh, châu Phi.
Xuất phát từ các phơng châm chung nói trên, có thể tính đến vị trí của
các thị trờng nh sau :
1. Khu vực châu Á - Thái Bình Dơng :
Tiếp tục coi khu vực này là thị trờng trọng điểm trong 10 năm tới vì ở
gần ta, có dung lợng lớn, tiếp tục là khu vực phát triển tơng đối năng động.
Thị trờng trọng điểm tại khu vực này sẽ là các nớc ASEAN, Trung Quốc (cả
Hồng Kông), Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc.
ASEAN là một thị trờng khá lớn, với khoảng 500 triệu dân, ở sát nớc
ta và ta là một thành viên, tuy trớc mắt gặp khó khăn tạm thời song tiềm
năng phát triển còn lớn, lâu nay chiếm khoảng trên dới 1/3 kim ngạch buôn
bán của nớc ta, sắp tới, khi AFTA hình thành ta càng có thêm điều kiện xuất
khẩu vào thị trờng này. Mặt khác, ASEAN có nhiều mặt hàng giống ta, đều
hớng ra các thị trờng khác là chính chứ cha phải là bn bán trong khu vực
là chính, trong những năm tới, khả năng xuất gạo, dầu thô cho khu vực này
sẽ giảm, trong khi đó với việc áp dụng biểu thuế AFTA, hàng của ASEAN

có điều kiện thuận lợi hơn trong việc đi vào thị trờng ta, do đó càng phải ra
sức phấn đấu gia tăng khả năng cạnh tranh để đi vào thị trờng ASEAN, cải
thiện cán cân thơng mại.
Các doanh nghiệp của ta cần tích cực, chủ động tận dụng thuận lợi do
cơ chế AFTA mở ra để gia tăng xuất khẩu sang các thị trờng này từ đó tăng
kim ngạch nhng giảm về tỷ trọng, hạn chế nhập siêu, giảm bn bán qua
trung gian Singapore. Ngồi ra, cần khai thác tốt thị trờng Lào và
Campuchia trong bối cảnh mới bởi phát triển buôn bán với Lào và
Campuchia không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa kinh tế.


×