Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.01 KB, 2 trang )
Thuốc ức chế miễn dịch
Đáp ứng miễn dịch của cơ thể bao gồm các phản ứng
nhằm loại trừ các tác hại do kháng nguyên gây ra.
Tuy nhiên khi đáp ứng miễn dịch quá mức sẽ sinh ra
hiện tượng quá mẫn, nguy hại cho cơ thể. Y học đã
tìm ra các loại thuốc để hạn chế các đáp ứng quá mẫn
đó và được gọi là thuốc ức chế miễn dịch.
Thuốc ức chế miễn dịch được chỉ định trong các bệnh
lý thuộc chuyên khoa: ung thư, bệnh máu, thận học,
tiêu hóa và đặc biệt là ghép tạng. Các thuốc ức chế
miễn dịch bao gồm:
Thuốc corticoid: Glucocorticoid là nội tiết tố của vỏ thượng thận, chịu ảnh hưởng của nội
tiết tố tuyến yên. Cortisol và các chế phẩm tương tự được tổng hợp ngày càng nhiều với
nhiều biệt dược. Nó ức chế sự hoạt hóa lympho T ở giai đoạn sớm, ức chế các lymphokin
đặc biệt IL1 và IL6 và ức chế tổng hợp TNF. Chúng khác nhau ở thời gian bán hủy, khả
năng kháng viêm, khả năng giữ natri và nước.
Hiện nay có các dược phẩm thường dùng: cortison viên 5mg; hydrocortison (cortison)
ống 25mg/1ml, lọ 125mg/5ml; depersolon (mazipredone HCl) ống 30mg; prednisolon
(cortancyl) viên 1mg, 5mg, 20mg; prednisolon viên 5mg; methylprednisolon: medrol
viên 16mg, medexa viên 16mg, solumedrol 20mg, 40mg, 80mg, methylprednisolon lọ
500mg, 1.000mg.
Thuốc được chỉ định theo các phác đồ chuyên khoa. Cần dựa vào cân nặng để tính tổng
liều, liều hàng ngày với tấn công, giảm dần và duy trì. Tránh ngừng thuốc đột ngột vì có
nguy cơ gây ra suy thượng thận cấp.
Người bệnh cần theo dõi chặt chẽ để phát hiện các biến chứng do dùng thuốc như: tăng
huyết áp, viêm loét dạ dày - tá tràng, đái tháo đường, loãng xương, rối loạn tâm thần, hội
chứng dạng Cushing
Thuốc độc tế bào gồm:
Hệ miễn dịch của cơ thể.