Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Vì sao bị loãng xương? doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.41 KB, 7 trang )

Vì sao bị loãng xương?

Ở những nước đang phát triển, chế độ ăn quá giàu chất đạm không tương
xứng với lượng canxi được đưa vào cơ thể là một trong những nguyên nhân làm
giảm khối lượng xương. Thói quen uống rượu, hút thuốc lá cũng là một trong
những yếu tố ảnh hưởng tới khối lượng xương.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra bệnh loãng xương. Tuy nhiên có thể tới
một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Tuổi: Tuổi càng cao mật độ xương càng giảm. Ở người già có sự mất cân
bằng giữa sự tạo xương và huỷ xương, chức năng của các tế bào tạo xương bị suy
giảm là một nguyên nhân dẫn tới tình trạng mất xương ở người già. Một nguyên
nhân thứ hai dẫn tới sự mất xương ở người già là sự suy giảm hấp thu canxi ở ruột
và sự giảm tái hấp thu canxi ở ống thận. Tham gia vào hấp thu canxi ở ruột có vai
trò của tiền vitamin D, là một chất được tổng hợp từ ánh sáng mặt trời mà ở người
già thời gian tiếp xúc với ánh sáng mặt trời thường giảm.
Khối lượng xương đỉnh: là khối lượng của mô xương lúc kết thúc giai đoạn
trưởng thành. Trong quá trình phát triển, sự tạo xương lớn hơn sự mất xương, khối
lượng xương tăng dần để đạt tới giá trị tối đa được gọi là khối lượng xương đỉnh.
Thường tốc độ hình thành xương cao ở xung quanh tuổi dậy thì, đạt độ đỉnh ở tuổi
30. Khối lượng xương đỉnh ở tuổi trưởng thành là một trong những yếu tố quyết
định khối lượng xương của cơ thể. Hai yếu tố quan trọng quyết định sự khác nhau
của khối lượng xương đỉnh là yếu tố di truyền và mức canxi trong chế độ ăn.
Cân nặng và chiều cao: Ở những người nhẹ cân sự mất xương xảy ra nhanh
hơn và tần suất gãy cổ xương đùi và xẹp đốt sống do loãng xương cao hơn. Ngược
lại, cân nặng cao là một yếu tố bảo vệ cơ thể khỏi tình trạng mất xương thông qua
việc tăng tạo xương. Cũng như cân nặng, chiều cao cũng ảnh hưởng đến mật độ
xương. Những người tầm vóc nhỏ có khối xương thấp hơn nên dễ có nguy cơ
loãng xương.
Yếu tố dinh dưỡng: Dinh dưỡng ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng của bộ
xương. Như trên chúng tôi đã trình bày chế độ ăn không đầy đủ canxi sẽ ảnh
hưởng đến sự đạt được đỉnh cao của khối xương và sự mất xương sau này. Có


nhiều nghiên cứu đã chứng minh với hai ly sữa giàu canxi mỗi ngày có tốc độ mất
xương chậm hơn rõ rệt so với không uống sữa. Ở những nước đang phát triển, chế
độ ăn quá giàu chất đạm không tương xứng với lượng canxi được đưa vào cơ thể
là một trong những nguyên nhân làm giảm khối lượng xương. Thói quen uống
rượu, hút thuốc lá cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới khối lượng
xương.
Yếu tố vận động: Sự giảm vận động ở những nguời lớn tuổi là một yếu tố
nguy cơ dẫn đến sự mất xương. Sự vận động của các cơ kích thích sự tạo xương
và tăng khối lượng xương.
Tình trạng mãn kinh: Ở phụ nữ sự mất xương xuất hiện sớm hơn từ 15 – 20
năm so với nam giới do hậu quả của sự suy giảm chức năng buồng trứng một cách
nhanh chóng sau mãn kinh. Người ta cũng thấy khối lượng xương thấp và tốc độ
mất xương nhanh ở những phụ nữ bị cắt bỏ buồng trứng (mãn kinh do phẫu thuật).
Các bệnh lý gây loãng xương: Các bệnh cường giáp, suy giáp, cường cận
giáp, cường tuyến thượng thận, đái tháo đường, cắt dạ dày ruột, rối loạn tiêu hoá
kéo dài, suy thận, xơ gan, các bệnh khớp mạn tính…
Các yếu tố khác: Việc sử dụng một số thuốc như corticoid, thuốc lợi tiểu,
thuốc chống đông kéo dài. Người ta cũng đề cập đến yếu tố di truyền, tình trạng
sinh nở…
Những ai có nguy cơ bị loãng xương?
Qua những nguyên nhân đã nêu trên những đối tượng sau sẽ có nguy cơ
loãng xương cao:
Những người có thể trạng bé nhỏ, cân nặng thấp thì nguy cơ loãng xương
cao hơn so với những người to béo.
Những phụ nữ sau mãn kinh 6 đến 8 năm hoặc mãn kinh sớm trước 45 tuổi
hoặc bị phẫu thuật cắt bỏ tử cung buồng trứng nên đi kiểm tra đo mật độ xương vì
khả năng loãng xương lúc này rất cao.
Những người có chế độ dinh dưỡng không đầy đủ canxi, vitamin D hoặc
chế độ dinh dưỡng quá nhiều protein, những người uống rượu, hút thuốc nhiều đều
có nguy cơ loãng xương cao.

Nếu trong gia đình có bố hoặc mẹ bị loãng xương các con sẽ có nguy cơ bị
loãng xương do yếu tố di truyền.
Những người mắc các bệnh gây loãng xương như đã nêu ở phần 2, những
người phải nằm bất động lâu ngày cũng có nguy cơ bị loãng xương.
Những người phải sử dụng thuốc corticoid, thuốc chống đông, lợi tiểu kéo
dài cũng cần phải được điều trị dự phòng loãng xương từ sớm.
Biểu hiện và hậu quả của loãng xương là gì?
Loãng xương thường tiến triển trong thời gian dài mà không có triệu chứng
gì biểu hiện ra bên ngoài. Các triệu chứng chỉ xuất hiện khi tình trạng loãng xương
đã nặng, chúng thường xuất hiện đột ngột sau sang chấn nhẹ hoặc có thể xuất hiện
từ từ tăng dần. Sau đây là các triệu chứng thường gặp:
Đau: Thông thường loãng xương gây đau xương và đó là triệu chứng chính.
Thường đau ở các vùng xương chịu tải của cơ thể (cột sống thắt lưng, chậu hông),
đau nhiều sau chấn thương, thường đau âm ỉ nếu là tự phát. Đau tăng khi vận
động, đi lại, đứng ngồi lâu, giảm khi nghỉ ngơi. Trong bệnh loãng xương không có
biểu hiện đau các khớp, bởi vậy khi có các biểu hiện đau khớp thì cần nghĩ tới
bệnh khác đặc biệt là bệnh thoái hoá khớp là bệnh cũng rất hay gặp ở người già.
Có thể có các dấu hiệu chèn ép rễ thần kinh như đau dọc theo các xương
sườn, đau dọc mặt trong đùi, đau dọc mặt ngoài chân… nhưng hiếm khi gây liệt.
Giảm chiều cao của cơ thể là một trong những triệu chứng gợi ý của loãng
xương. Mỗi một đốt sống xẹp hoàn toàn có thể làm chiều cao của cơ thể giảm 1cm
và trong những trường hợp nặng khi nhiều đốt sống bị xẹp chiều cao của cơ thể có
thể giảm từ 10 – 20 cm bởi vậy việc theo dõi chiều cao từ khi còn trẻ là rất cần
thiết.
Biến dạng cột sống: cột sống bình thường cong hình chữ S. Khi các đốt
sống bị xẹp có thể gây mất đường cong sinh lý của cột sống như gù ở vùng lưng,
thắt lưng, gù ở mức độ nặng gây tình trạng còng lưng. Có thể cột sống thắt lưng
quá ưỡn về phía trước do trượt đốt sống.
Gãy xương là hậu quả nặng nề do loãng xương gây ra. Có thể gãy ở mọi vị
trí tuy nhiên thường hay gặp gãy đầu dưới xương cẳng tay, gãy các đốt sống, gãy

cổ xương đùi. Gãy cổ xương đùi thường gặp ở nam giới trên 70 tuổi trong khi gãy
đầu dưới xương cẳng tay và gãy các đốt sống thường gặp ở phụ nữ sau mãn kinh
từ 10 – 20 năm. Thường gãy xương do loãng xương xảy ra sau một sang chấn rất
nhẹ, có thể chỉ do sự thay đổi tư thế đột ngột, có những trường hợp do ho hoặc hắt
hơi mạnh.
Trên đây là những biểu hiện của bệnh loãng xương, tuy nhiên các triệu
chứng này cũng không hoàn toàn đặc hiệu cho bệnh loãng xương do chúng có thể
biểu hiện trong nhiều bệnh khác. Bởi vậy các triệu chứng trên chỉ có tính chất gợi
ý cho chẩn đoán loãng xương. Muốn khẳng định chẩn đoán người bệnh cần phải
được kiểm tra bằng những phương pháp đo mật độ xương.
Làm thế nào để chẩn đoán loãng xương?
Bằng thăm khám và hỏi bệnh khó khẳng định được chẩn đoán loãng xương
trừ khi người bệnh có gãy xương tự nhiên.
Để chẩn đoán loãng xương có nhiều phương pháp. Trước kia, khi chưa có
phương pháp đo mật độ xương người ta chẩn đoán loãng xương dựa vào chụp
Xquang xương bàn tay và cột sống hoặc dựa vào một số xét nghiệm. Phương pháp
chụp Xquang có ưu điểm là đơn giản, chi phí thấp, có thể thực hiện được cả những
cơ sở y tế tuyến dưới tuy nhiên phương pháp này có nhược điểm là chẩn đoán
loãng xương muộn, khi chất lượng khoáng đã giảm từ 30 – 50% thì trên Xquang
mới rõ. Các xét nghiệm để chẩn đoán loãng xương là phương pháp phức tạp ít
được áp dụng để chẩn đoán loãng xương thường qui. Từ khi phương pháp đo mật
độ xương ra đời nó đã trở thành phương pháp phổ biến nhất để chẩn đoán loãng
xương. Cho tới nay, phương pháp đo mật độ xương bằng tia X năng lượng kép
(DEXA) tại hai vị trí cột sống thắt lưng và đầu trên xương đùi được xem là có độ
tin cậy cao. Một số bệnh viện đã được trang bị loại máy này như ở Hà Nội có
Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện E, Bệnh viện K… Ở thành phố Hồ Chí Minh có
Bệnh viện Chợ Rẫy… một số tỉnh thành khác cũng dang dần được trang bị.



×