Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Ôn thi vào lớp 10_CĐ3: Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.56 KB, 6 trang )

Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác
Sinh thời, Bác Hồ luôn luôn nghĩ đến miền Nam, ngày đêm thương nhớ miền Nam.
Với Bác, miền Nam là niềm vui, là hạnh phúc, là nỗi đau không lúc nào nguôi: “Miền
Nam trong trái tim tôi”. Niềm mong mỏi thiết tha của Bác là miền Nam mau được
giải phóng. Miền Nam cũng ngày đêm thương nhớ Bác, mong ngày giải phóng để
được gặp Bác kính yêu. Nhưng tiếc thay, khi Bắc Nam sum họp một nhà thì Bác
không còn nữa. Lòng thương nhớ, nỗi niềm đau đớn của đồng bào và chiến sĩ miền
Nam dồn nén bao nhiêu năm đã được nhà thơ Viễn Phương thể hiện trong bài Viếng
lăng Bác. Bài thơ không những chỉ thể hiện dòng cảm xúc trào dâng của nhà thơ mà
còn thể hiện hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng những hình ảnh vừa quen thuộc,
vừa giàu sức khái quát, vừa lung linh gợi cảm. Bằng cảm xúc chân thực và ngôn ngữ
thơ gợi cảm, Viễn Phương đã nói hộ chúng ta một chân lý: Bác Hồ vĩ đại sống mãi
trong lòng nhân dân ta.
Bài thơ ra đời năm 1976, khi lần đầu tiên sau giải phóng miền Nam, Viễn phương ra
thăm Lăng Bác. Bài thơ rất ngắn gọn, súc tích nhưng có sức gợi tạo nên sự xúc động
cho người đọc. Ngôn ngữ thơ tuôn trào theo theo dòng cảm xúc chân thành, tha thiết.
Mở đầu bài thơ, Viễn Phương đã bày tỏ ngay tình cảm sâu nặng, ruột thịt của mình
bằng câu thơ giản dị: Con ở miềm Nam ra thăm lăng Bác.
Tình cảm giữa miền Nam và Bác Hồ luôn luôn là tình cảm ruột thịt “Bác nhớ miền
Nam nỗi nhớ nhà” (Tố Hữu) và tình cảm của miền Nam đối với Bác cũng là tình cảm
nhớ mong da diết “Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” (Tố Hữu). Tự đáy lòng của
người con đến thăm cha, Viễn Phương nói với Bác: Con ở miền Nam…. Câu thơ giản
dị nhưng bao hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác và trong tim miền Bắc, Miền Nam
luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương, là niềm tự hào, là biểu tượng anh hùng,
bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là thành đồng Tổ Quốc… Giờ đây, nhà thơ mang
theo cả niềm tự hào đó của đồng bào miền Nam để đến với Bác.
Hình ảnh đầu tiên trong lăng làm nhà thơ xúc động là hình ảnh hàng tre:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Hàng tre bát ngát cuốn hút cảm xúc của nhà thơ. Qua hình ảnh hàng tre quen thuộc


tác giả gửi gắm một ý nghĩa tượng trưng nhằm ca ngợi Bác, ca ngợi dân tộc. Chắc
rằng, cũng như mọi người Việt Nam, trong tâm khảm nhà thơ, cây tre là hình ảnh
giản dị, thân thuộc, đời đời gắn bó với quê hương làng xóm. Hàng tre xanh xanh
trong vườn Bác gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Hàng tre gợi hình ảnh mọi miền
quê hương đất nước, nhất là hình ảnh miền Nam yêu thương. Tre kiên cường trong
bão táp mưa sa như dân tộc ta vững vàng qua phong ba bão tố, như Bác Hồ suốt đời
sống giản dị nhưng kiên cường tranh đấu vì độc lập tự do của dân tộc.
Hoà vào dòng người thăm lăng, nhà thơ tiếp tục dòng suy tưởng. Lời thơ bỗng dạt
dào một cảm xúc tự hào, thành kính, thương nhớ Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Ai đã từng một lần đi viếng lăng Bác mới hiểu hết hàm ý trong câu thơ của Viễn
Phương. Ngày ngày, mặt trời - chúa tể của thiên nhiên - thán phục một mặt trời trong
lăng rất đỏ. Mặt trời rất đỏ, hình ảnh tượng trưng cho Bác Hồ - là mặt trời cách mạng,
là nguồn ánh sáng rực rỡ không bao giờ tắt, mãi mãi chiếu rọi con đường đi tới của
dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà thơ đã sử dụng hình ảnh mặt trời để thể hiện ánh sáng
của lý tưởng cách mạng, nhưng đối sánh hai hình ảnh mặt trời của Viễn Phương quả
là rất độc đáo. Đây là một sáng tạo nghệ thuật có tác dụng bộc lộ nội dung rất hiệu
quả. Không nhiều lời, chỉ một hình ảnh mặt trời rất đỏ, nhà thơ đã khái quát được
hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Nhà thơ đã nói hộ chúng rằng: Bác Hồ là mặt trời cách mạng
đẹp nhất, rực rỡ nhất, chói lọi nhất luôn luôn toả sáng trong tâm hồn người Việt
Nam.
Cùng với mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ.
Nhịp thơ chầm chậm như bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao
trùm một một không khí thương nhớ Bác không nguôi, thành kính kết tràng hoa tình
yêu dâng bảy mươi chín mùa xuân của Người. “Người ta là hoa của đất”, nhà thơ thật
sâu sắc và tinh tế khi tôn quí nhân dân. Mỗi người dân là một bông hoa và dòng
người đi trong thương nhớ chính là tràng hoa dâng lên Bác.

Ngày ngày… ngày ngày …, thời gian không ngừng trôi và lòng người Việt Nam
không bao giờ nguôi tình cảm nhớ thương, yêu quí, kính trọng đối với Bác.
Đặc biệt xúc động là khi vào trong lăng, thấy Bác nằm nghỉ, nhà thơ sững sờ, nghẹn
ngào, đau đớn:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền,
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi ,
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Bác nằm đó như đang trong giấc ngủ bình yên sau bảy mươi chín mùa xuân không hề
nghỉ. Từ ánh điện mờ ở trong lăng, nhà thơ liên tưởng đến một hình ảnh rất đẹp: vầng
trăng sáng dịu hiền. Hình ảnh đó đã đưa người đọc vào một thế giới huyền diệu, trong
sáng và thanh khiết; càng gợi ta nghĩ đến tình yêu thiên nhiên, yêu trăng nồng nàn
của Bác. Vầng trăng kia đã bao lần sáng lên trong thơ Người. Cả khi trong ngục:
“Người ngắm trăng soi qua cửa sổ, trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Cả những khi
bận rộn việc nước việc quân, Bác vẫn thấy “trung thu trăng sáng như gương”, “rằm
xuân lồng lộng trăng soi”, “trăng ngân đầy thuyền”, “trăng vào cửa sổ đòi thơ”,
“trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa…” Giờ đây, Bác nằm đó, trong giấc ngủ bình yên,
giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Vẫn biết rằng Bác như trời xanh, mãi mãi sống trong
sự nghiệp của chúng ta. Nhưng con tim nhà thơ đau đớn vô cùng khi đứng trước
Người. Mà sao nghe nhói ở trong tim, chỉ một chữ nhói cũng đủ nói lên nỗi quặn đau,
thương nhớ không gì bù đắp được vì mất Bác, vì nỗi thiếu vắng Bác.
Và nỗi đau không còn kìm ném được nữa, nó trào lên dữ dội khi nhà thơ chia tay với
Bác:
Mai về miền Nam, thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng
Muốn làm bông hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Thương Bác, thương đến trào nước mắt, một tình cảm yêu quý mãnh liệt, trọn vẹn
như tình cảm của người con đối với người cha ruột thịt. Nhà thơ chia tay Bác trong
tiếng khóc nấc nở nghẹn ngào. Làm sao ngăn được dòng nước mắt thương nhớ Bác-

một con người vừa vĩ đại, thanh cao, vừa gần gũi thân thiết với chúng ta, một con
người suốt đời hy sinh, cống hiến cho dân tộc nay vĩnh viễn nằm lại trong lăng? Nhà
thơ lưu lưyến không muốn rời xa Bác, chỉ ước muốn biến thành con chim, bông hoa,
cây tre, góp tiếng hót, làn hương quanh nơi Bác nghỉ cho trọn niềm trung hiếu với
Người. Đoạn thơ dạt dào tình cảm, nhịp điệu thiết tha, cùng với hình ảnh cây tre
trung hiếu một lần nữa truyền đến người đọc sự xúc động nghẹn ngào.
Bài thơ ngắn, nhưng tác giả đã thành công khi sử dụng hàng loạt hình ảnh ẩn dụ
mang tính tượng trưng sâu sắc. Các hình ảnh hàng tre xanh xanh, giữa bão táp mưa
sa, đến các hình ảnh mặt trời rất đỏ, tràng hoa, bảy mươi chín mùa xuân, vầng trăng
sáng dịu hiền, trời xanh là mãi mãi đã gợi cho người đọc thấy trọn vẹn hình tượng
Bác Hồ gần gũi, cao quý, thanh khiết, vĩ đại biết bao. Ngoài ra, nó còn gợi đến hình
ảnh quê hương, đất nước, nhân dân. Nhà thơ đã có nhiều dụng ý khi sử dụng các hình
ảnh rất đẹp, rất lớn lao của vũ trụ: mặt trời, vầng trăng, trời xanh. Những hình ảnh đó
tượng trưng cho cái vĩ đại, lớn lao của Bác Hồ. Bác như vầng mặt trời rực rỡ, như
vầng trăng sáng dịu hiền, như bầu trời xanh. Ở Bác toả ra ánh sáng của trí tuệ thiên
tài và lấp lánh ánh sáng của một tâm hồn cao đẹp. Còn hình ảnh hàng tre xanh xanh
lại tượng trưng cho cái bình dị, gần gũi của Người. Và hơn thế nữa, tất cả các hình
ảnh ấy đều gợi cho ta thấy sự bất tử của Bác Hồ. Người sống mãi trong lòng nhân dân
ta, trong sự nghiệp của chúng ta. Mãi mãi là vị cha già thân thiết, yêu quý của chúng
ta.
Viếng lăng Bác không những là tiếng khóc đau đớn, nghẹn ngào trước sự ra đi của
Bác, là lòng thương nhớ không nguôi, lòng kính phục vô hạn của nhà thơ Viễn
Phương và của nhân dân ta đối với Bác Hồ mà bài thơ còn diễn tả thành công hình
tượng Bác Hồ vĩ đại bằng những hình ảnh đẹp, nhịp điệu tha thiết, cảm xúc nồng nàn
chân thực. Âm hưởng của bài thơ ngân vang mãi trong lòng người đọc. Bài thơ được
phổ nhạc càng trở nên truyền cảm sâu xa, làm xúc động hàng triệu trái tim Việt Nam
từ 1976 đến nay.
Trong hai cuộc kháng chiến, nhà thơ Viễn Phương hoạt động ở Nam Bộ, và đã sáng
tác nhiều bài thơ về Bác Hồ. Có bài tác giả viết khi bị địch giam cầm ở các trại giam
Phú Lợi, Lê Văn Duyệt, không có giấy bút, Viễn Phương sáng tác thầm trong đầu và

đọc cho các đồng chí cùng khám nghe. Kỳ diệu thay, Viễn Phương chỉ đọc một vài
lần, mọi người đều thuộc, rồi những khi bị địch bắt đi lao động, họ lại đọc cho bạn tù
ở khám khác nghe, cứ vậy thơ Viễn Phương được lan truyền trong nhà tù. Phải đến
bài thơ Viếng Lăng Bác, Viễn Phương mới thực sự có một bài thơ hay về Bác. Dưới
đây là cuộc trò chuyện giữa ông và phóng viên VNQĐ
PV: Thưa nhà thơ Viễn Phương, trong một lần nào đó, tôi được đọc một bài viết của
anh Lê Quang Vịnh trên báo Sài Gòn Giải phóng, kể rằng: “Lúc tôi 25 tuổi, bị bọn
Mỹ – Diệm kết án tử hình rồi chuyển thành trung thân khổ sai và đày ra Côn Đảo.
Trong chuồng cọp, địa ngục trần gian của nhà tù ấy, tôi bị bắt buộc phải nằm dưới
hầm suốt ngày ". Trên vách chuồng cọp, tôi thấy chi chít những chữ ghi bằng nhiều
cách khác nhau. Có những dòng được khắc trên vôi bằng cái xương cá mắm. Có
những chữ bằng máu, có những ghi bằng than. Tôi đọc được bài thơ dài, chỗ này ghi
một đoạn, chỗ khác ghi một khúc ráp lại rất vần với nhau.
Hôm nay mười chín tháng năm:
Lòng con sáng tựa đêm rằm trung thu
Con đang chúc thọ dưới mồ
Con đang dựng một rừng cờ trong tim
Đêm nay mộng hóa thành chim
Bay qua lưới sắt con tìm đến cha
Sau này mới biết là thơ Viễn Phương, bài Chúc thọ dưới mồ. Tôi nghĩ rằng đó cũng
là hạnh phúc lớn của nhà thơ: Góp phần mình vào công cuộc giải phóng đất nước.
Nhà thơ Viễn Phương: Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc ta là nguồn cảm
hứng vô tận của người sáng tạo văn, thơ, nhac, họa. Trong kháng chiến chống Pháp
và Mỹ, các nhà thơ sống ở Nam Bộ đều có những tác phẩm viết về Bác. Trong nhà tù
của giặc, tôi luôn luôn nghĩ về Bác. Bác là nguồn động viên, cổ các chiến sĩ trong nhà
tù. Tôi đã viết bài thơ Chúc thọ dưới mồ, được các đồng chí trong tù thuộc, truyền
cho nhau. Tuy lời thơ còn mộc mạc nhưng là tấm lòng thành kính của tôi đối với
Người.
PV: Phải đến khi đất nước thống nhất, ra thăm miền Bắc, anh mới có Viếng Lăng
Bác, đầy đủ độ chín và ngôn từ. Anh có thể cho biết bài thơ ra đời trong hoàn cảnh

nào?
Nhà thơ Viễn Phương: Khi Bác còn sống, nhân dân miền Nam mong muốn đất nước
giải phóng để đón Bác vào thăm. Nhưng rồi, ước mơ ấy không được toại nguyện. Khi
miền Nam giải phóng, mọi người đều muốn ra thăm miền Bắc, viếng lăng Bác. Năm
1976, tôi ra Hà Nội, được đến viếng Bác.
Sáng hôm ấy mưa phùn, Hà Nội lây phây trong gió rét, tôi được nối vào dòng người
vào lăng Bác. Chúng tôi đi từ hướng chùa Một Cột. Sương toả mênh mông, những
hàng tre xanh sẫm, những gốc đào hoa đỏ rực… Tất cả đều thiêng liêng. Đến bên
Bác, ai cũng muốn dừng thật lâu. Bác nằm đó, thanh thản, giản dị, hiền từ như đang
ngủ. Anh sáng dịu dàng toả xuống như giữa một đêm trăng thanh miền thôn dã. Tôi
không cầm nổi nước mắt.
Ra khỏi làng, tôi đi như người mộng du và tứ thơ bật ra:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.
Lời thơ thật giản dị. Tôi nghĩ, Bác của chúng ta vốn giản dị, Người ghét sự cầu kỳ,
làm dáng. Giản dị, trong sáng, sâu sắc cũng là bao quát trong thơ Bác. Tôi viết như là
ý nghĩ của mình. Và, đó cũng là tâm tư của nhân dân và chiến sỹ ở Nam Bộ với Bác.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Mặt trời của vũ trụ đối với mặt trời trong lăng. Đó cũng là hàm chứa sự vĩnh cửu của
sự nghiệp Bác Hồ tạo dựng và nhân dân ta, Đảng ta đã thực hiện: xây dựng một đất
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh như di chúc của
Bác.
Hoa tươi là nét đẹp của thiên nhiên, hàng ngày dâng lên Bác rất nhiều nhưng tôi nghĩ
đến:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng Bảy mươi chín mùa xuân
Dòng người vây quanh Bác trở thành hoa. Và dâng cho Bảy mươi chín màu xuân, là
hoa tươi của cuộc sống.
Toàn bài Viếng Lăng Bác mang một không khí trang nghiêm, thành kính. Đoạn kết,

tôi muốn nói lên tình cảm của nhân dân, chiến sỹ miền Nam hứa với Bác:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
(sưu tầm)

×